Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế.
1. Những vấn đề chung về chính sách thương mại quốc tế
1.1. Khái niệm về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế thường được hiểu là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ qua biên giới giữa các quốc gia. Theo nghĩa rộng hơn, thương mại quốc tế bao gồm sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất 4 qua biên giới giữa các quốc gia [132, tr.4]. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) xem xét thương mại quốc tế bao gồm thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ và thương mại quyền sở hữu trí tuệ [164]. Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại là một nội dung trong các hiệp định đa biên về thương mại hàng hoá.
Trong các tài liệu tiếng Anh, khái niệm về chính sách thương mại quốc tế được viết ngắn gọn là chính sách thương mại (trade policy). Mạng lưới điện toán của nước Anh định nghĩa chính sách thương mại quốc tế là “chính sách của chính phủ nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương”.
Chính sách thương mại quốc tế là “những chính sách mà các chính phủ thông qua về thương mại quốc tế” [50, tr.315].
Theo Trung tâm Kinh tế quốc tế của Úc (CIE), hệ thống các chính sách thương mại quốc tế có thể được phân chia bao gồm các quy định về thương mại, chính sách xuất khẩu, hệ thống thuế và các chính sách hỗ trợ khác [114]. Các quy định về thương mại bao gồm hệ thống các quy định liên quan đến thương mại (hệ thống pháp quy); hệ thống giấy phép, chính sách đối với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kiểm soát doanh nghiệp); việc kiểm soát hàng hoá theo các quy định cấm xuất, cấm nhập; kiểm soát khối lượng; kiểm soát xuất nhập khẩu theo chuyên ngành (kiểm soát hàng hoá). Chính sách xuất nhập khẩu của một nước có thể là khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu và cũng có thể là hạn chế xuất khẩu hay nhập khẩu tuỳ theo các giai đoạn và mặt hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, các chính phủ áp dụng các biện pháp như miễn thuế, hoàn thuế, tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất. Để hạn chế xuất khẩu, các chính phủ có thể áp dụng các lệnh cấm xuất, cấm nhập, hệ thống giấy phép, các quy định kiểm soát khối lượng hay quy định về cơ quan xuất khẩu và các quy định về thuế đối với xuất khẩu. Các chính sách hỗ trợ khác được áp dụng bao gồm khuyến khích khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng vào xuất khẩu (miễn thuế và ưu đãi thuế) hay khuyến khích các nhà đầu tư trong nước bằng các khoản tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, đảm bảo tín dụng xuất khẩu và cho phép khấu hao nhanh, hoạt động hỗ trợ từ các tổ chức xúc tiến thương mại.
Trong luận án này, chính sách thương mại quốc tế được hiểu là những quy định của chính phủ nhằm điều chỉnh hoạt động thương mại quốc tế, được thiết lập thông qua việc vận dụng các công cụ (thuế quan và phi thuế quan) tác động tới các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động thương mại quốc tế được xem xét chủ yếu bao gồm thương mại hàng hoá (và cũng đề cập tới các nội dung liên quan đến đầu tư ).
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Nội dung các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Phần này sẽ trình bày khái quát hệ thống công cụ của chính sách thương mại quốc tế trên bình diện nội dung và mục đích sử dụng.
Theo Krugman và Obstfeld, các công cụ của chính sách thương mại quốc tế có thể được phân chia thành các công cụ thuế quan và phi thuế quan [50].
Hệ thống thuế được xem xét thường bao gồm thuế trực tiếp và thuế gián tiếp. Các vấn đề được xem xét thường bao gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu theo dòng thuế, mức thuế, cơ cấu tính thuế, thuế theo các ngành, lịch trình cắt giảm thuế theo các chương trình hội nhập. Thuế quan trực tiếp là thuế đánh vào hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu. Các loại thuế này bao gồm thuế theo số lượng, thuế giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế gián tiếp tác động tới thương mại như thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Các hàng rào phi thuế quan bao gồm trợ cấp xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, các yêu cầu về nội địa hoá, trợ cấp tín dụng xuất khẩu, quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, khuyến khích doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất khẩu, khu chế xuất, khu công nghiệp, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp.
Trợ cấp xuất khẩu là khoản tiền trả cho một công ty hay một cá nhân đưa hàng ra bán ở nước ngoài. Trợ cấp xuất khẩu có thể theo khối lượng hay theo giá trị.
Hạn ngạch nhập khẩu là sự hạn chế trực tiếp số lượng hoặc giá trị một số hàng hoá có thể được nhập khẩu. Thông thường những hạn chế này được áp dụng bằng cách cấp giấy phép cho một số công ty hay cá nhân. Hạn ngạch có tác dụng hạn chế tiêu dùng trong nước giống như thuế song nó không mang lại nguồn thu cho chính phủ. Hạn ngạch xuất khẩu thường áp dụng ít hơn hạn ngạch nhập khẩu và thường chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng.
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện là một biến thể của hạn ngạch nhập khẩu. Nó là một hạn ngạch thương mại do phía nước xuất khẩu đặt ra thay vì nước nhập khẩu.
Các yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá là một quy định đòi hỏi một số bộ phận của hàng hoá cuối cùng phải được sản xuất trong nước. Bộ phận này được cụ thể hoá dưới dạng các đơn vị vật chất hoặc các điều kiện về giá trị.
Trợ cấp tín dụng xuất khẩu cũng giống như trợ cấp xuất khẩu nhưng dưới hình thức một khoản vay có tính chất trợ cấp dành cho người mua.
Quy định về mua sắm của chính phủ hay doanh nghiệp có thể hướng việc mua sắm trực tiếp vào các hàng hoá được sản xuất trong nước ngay cả khi những hàng hoá đó đắt hơn hàng nhập khẩu.
Các hàng rào hành chính và kỹ thuật là việc các chính phủ sử dụng các điều kiện về tiêu chuẩn y tế, kỹ thuật, an toàn và các thủ tục hải quan để tạo nên những cản trở thương mại.
Các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp là các thủ tục, biện pháp áp dụng đối với các hàng hoá bị coi là bán phá giá hay trợ cấp.
Các khu công nghiệp và khu chế xuất tạo điều kiện cho các nhà sản xuất vì nó có những ưu đãi như tiền thuê đất, hệ thống cơ sở hạ tầng (điện, nước, viễn thông) hiệu quả và đáng tin cậy, thủ tục hành chính thuận lợi.
2. Nội dung của việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các nền kinh tế gia nhập, tham gia và trở thành một bộ phận trong một tổng thể [14, tr.34]. Trên bình diện quốc gia, biểu hiện của hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia gia nhập và tham gia vào nền kinh tế thế giới thông qua việc tham gia vào các tổ chức khu vực, quốc tế và ký kết các hiệp định kinh tế song phương và đa phương. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động tới hoạt động thương mại quốc tế theo hướng giảm hay loại bỏ các rào cản thương mại.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, khi hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, các quốc gia phải tuân thủ những nguyên tắc và quy định của các thể chế quốc tế và khu vực, của các hiệp định song phương và đa phương đã và sẽ ký kết. Các quốc gia khó có thể đưa ra một chính sách “chỉ vì lợi ích của mình” mà không tính đến phản ứng của các quốc gia bạn hàng. Tuỳ thuộc vào thể chế và cam kết hội nhập, hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những yêu cầu khác nhau khi hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế như những yêu cầu về lộ trình và nội dung mở cửa nền kinh tế trong nước và thâm nhập thị trường thế giới (việc cắt giảm và điều chỉnh các ưu đãi cho phù hợp với cam kết; thay đổi và ban hành mới các luật và bộ luật; hỗ trợ xuất khẩu, nâng cao tính cạnh tranh của các doanh nghiệp; phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế).
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các nước đang phát triển (như Việt Nam) đang thực hiện và hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá và phải gia nhập có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất khu vực và quốc tế. Trong điều kiện này, các nước đang phát triển phải giải quyết các vấn đề từ nhận thức về việc giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch, cách thức sử dụng các công cụ của chính sách đến phối hợp hoàn thiện chính sách..Khung phân tích chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập được diễn tả như ở Hình 1.1. Trước hết, các quốc gia cần làm rõ nhận thức về việc giải quyết vấn đề tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch. Tiếp theo, việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế được phân tích. Cuối cùng, hệ thống các công cụ được xem xét theo thời gian để làm rõ ba vấn đề: (i) tính phù hợp với hội nhập khu vực và quốc tế và mục tiêu công nghiệp hoá; (ii) việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế; (iii) tác động tới hoạt động thương mại quốc tế (xuất khẩu và nhập khẩu). Mặc dù có xem xét tác động của chính sách thương mại quốc tế tới hoạt động thương mại quốc tế và nền kinh tế (như phần ứng dụng GTAP để tính toán về tác động của Chương trình thu hoạch sớm) song luận án này không tập trung vào nội dung này.
2.1. Hoàn thiện nhận thức về giải quyết mối quan hệ giữa tự do hoá thương mại và bảo hộ mậu dịch
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, chính phủ các nước có lý do khác nhau khi lựa chọn tự do hoá thương mại hay bảo hộ thị trường trong nước. Câu hỏi về việc nên hay không thực hiện tự do hoá không còn phù hợp nữa. Thay vào đó, các quốc gia phải thực hiện tự do hoá theo một lộ trình nhất định dựa trên cơ sở những phân tích lợi ích – chi phí và kết hợp với những phân tích khác. Tại sao thực hiện tự do hoá ngành này theo lộ trình này và thực hiện tự do hoá ngành khác theo lộ trình khác là câu hỏi cần được giải quyết.
Các nhà kinh tế học thường đưa ra khuyến nghị dựa trên phân tích về lợi ích – chi phí thông thường song Chính phủ không hoàn toàn đưa ra chính sách dựa trên những phân tích như vậy [50, tr.370]. Các chính phủ có thể đưa ra các lý do sau khi thực hiện tự do hoá thương mại ở một ngành:
Một là, theo những phân tích về lợi ích – chi phí thông thường, một môi trường thương mại tự do không bị bóp méo sẽ không tạo ra tổn thất ròng của xã hội do những lệch lạc trong sản xuất và tiêu dùng mang lại.
Hai là, những tính toán nằm bên ngoài phân tích lợi ích – chi phí thông thường bao gồm lợi ích đạt được nhờ lợi thế kinh tế theo quy mô thông qua sự gia nhập ngành của nhiều doanh nghiệp ở những thị trường được bảo hộ và lợi ích đạt được nhờ việc các chủ doanh nghiệp học hỏi thông qua cạnh tranh.
Ba là, lý do chính trị. Nếu chính phủ áp dụng các biện pháp bảo hộ thì chính phủ sẽ phải giải quyết vấn đề lợi ích chính trị của các nhóm lợi ích (vấn đề phân phối lại thu nhập cho các khu vực bị ảnh hưởng).
Bên cạnh đó, các chính phủ cũng có thể đưa ra các lý do sau để lý giải tại sao lại thực hiện bảo hộ một ngành:
Một là, đối với các nước lớn (có khả năng thay đổi giá thế giới) thì việc áp dụng thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu có lợi hơn cho nước đó. Các nước nhỏ không làm được như vậy do không có khả năng tác động thay đổi giá cả thế giới.
Hai là, sự thất bại của thị trường trong nước như thất nghiệp hoặc bán thất nghiệp, những khiếm khuyết trên thị trường vốn, công nghệ. Khi đo lường thặng dư của người sản xuất sẽ rất khó đo được các khoản lợi ích và chi phí.
Ba là, thuyết về điều tốt nhất hạng nhì (the second best) cho rằng khi thị trường bị khiếm khuyết thì việc sử dụng các chính sách can thiệp mang lại điều tốt chẳng hạn tạo ra nhiều việc làm cho khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, chính sách thương mại quốc tế, khi được làm theo cách này, phải được so sánh với chính sách trong nước nhằm khắc phục cùng một vấn đề.
Với lập luận về bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ, nhiều nước đang phát triển lựa chọn chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Các chính sách này thành công trong thúc đẩy công nghiệp chế tạo song lại không thành công trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Các nền kinh tế công nghiệp hoá mới (NIEs8 ) thực hiện công nghiệp hoá thông qua phát triển xuất khẩu hàng chế tạo và các nền kinh tế này đạt được sự tăng trưởng nhanh về sản lượng và mức sống. Vấn đề đặt ra là các nước đang phát triển liệu có đạt được những thành tích tương tự không nếu từ bỏ chính sách công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Câu hỏi có thể được đặt ra là tại sao không khuyến khích cả thay thế nhập khẩu và định hướng xuất khẩu? Lý do bởi vì một chế độ thuế quan làm giảm nhập khẩu cũng làm giảm xuất khẩu [50, tr.424-425]. Việc bảo hộ các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu dẫn đến chuyển các nguồn tài nguyên ra khỏi khu vực xuất khẩu thực tế hoặc tiềm tàng. Do đó, một nước lựa chọn phương án thay thế nhập khẩu cũng đồng thời lựa chọn cách làm giảm sự tăng trưởng xuất khẩu.
So sánh quá trình công nghiệp hoá hướng ngoại dựa trên xuất khẩu của các nền kinh tế Đông và Đông Nam Á và công nghiệp hoá hướng nội dựa trên thay thế nhập khẩu của các nước Mỹ Latinh9 trong 3 thập kỷ từ những năm 1960 đến những năm 1980 của thế kỷ XX ta thấy các nước Đông và Đông Nam Á không phải lúc nào cũng thực hiện hướng ngoại. Các nước Indonesia, Thái Lan và Malaysia chỉ thực sự thể hiện tự do hoá nhập khẩu vào những năm 1980. Hiện tại, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc vẫn thực hiện chính sách thay thế nhập khẩu có lựa chọn [160].
2.2. Hoàn thiện các công cụ của chính sách thương mại quốc tế
Trong cơ chế rà soát chính sách thương mại quốc tế của WTO, các công cụ của chính sách thương mại quốc tế được xem xét theo hai nhóm là: các công cụ tác động tới nhập khẩu và các công cụ tác động tới xuất khẩu.
Các công cụ tác động trực tiếp tới nhập khẩu bao gồm các công cụ thuế, hạn ngạch nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, yêu cầu về tỷ lệ nội địa hoá, các quy định về mua sắm của chính phủ, các hàng rào hành chính, các quy định về chống bán phá giá và trợ cấp, hạn ngạch thuế quan, nhập khẩu không tự động, các hàng rào bảo hộ mới và các hàng rào kỹ thuật (TBT) như bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động vật.
Các công cụ tác động trực tiếp tới xuất khẩu bao gồm trợ cấp xuất khẩu, các chương trình xúc tiến thương mại, hỗ trợ thông tin, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Nghiên cứu của Rodrik thực hiện năm 2004 cho thấy trong bối cảnh toàn cầu hoá, các nước đang phát triển phải chú ý xem xét việc phối hợp chính sách thương mại quốc tế và các chính sách ngành, đặc biệt là sự phối hợp với chính sách công nghiệp, trong đó các Chính phủ cần có cơ chế thu nhận thông tin từ khu vực doanh nghiệp để đưa ra các chính sách. Việc phối hợp hoàn thiện chính sách phải dựa trên thông tin đưa ra từ doanh nghiệp. Các yêu cầu khác cần phải có là sự cam kết và tham gia trực tiếp của lãnh đạo cao cấp; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong Chính phủ; việc đảm bảo quá trình phối hợp thiết kế và thực hiện chính sách được rõ ràng và có cơ sở. Các hỗ trợ của Chính phủ là hỗ trợ hoạt động chứ không phải hỗ trợ ngành [145].
Phần dưới đây sẽ xem xét sự thay đổi của hệ thống thương mại quốc tế phát triển qua các giai đoạn. Từ đó chỉ ra những yêu cầu về vận dụng các công cụ của chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế:
Giai đoạn 1 (1947-1980): Đây là giai đoạn thực hiện tự do hoá thương mại giữa các nước công nghiệp. Trong giai đoạn này, vai trò của GATT được phát huy. Tuy nhiên, do nhiều lý do như sự mất cân bằng về thương mại giữa các nước hay bảo hộ trở nên khôn khéo hơn dẫn đến GATT rơi vào khủng hoảng ở cuối những năm 1970
Giai đoạn 2 (1980-1994): Giai đoạn này chứng kiến nhiều hạn chế về thương mại nằm ngoài phạm vi của GATT. Giai đoạn 1990 chứng kiến sự phát triển của các khu vực tự do thương mại như Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN.
Giai đoạn 3 (1994 – nay): Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994) trong khuôn khổ GATT kết thúc. Nó chấm dứt sự tồn tại 47 năm của GATT và đánh dấu sự ra đời của Tổ chức thương mại thế giới. WTO được chính thức thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995, có trụ sở chính tại Geneva, Thuỵ Sỹ [164].
Tính đến ngày 11 tháng 1 năm 2007, WTO có 150 thành viên. WTO được thành lập nhằm tạo ra một tổ chức chung thiết lập các quy tắc và giải quyết các vấn đề trong quan hệ kinh tế quốc tế.
WTO có 6 chức năng chính sau:
– Thiết lập các hiệp định thương mại trong khuôn khổ của nó;
– Tạo ra một diễn đàn cho các đàm phán về thương mại;
– Giải quyết các tranh chấp thương mại;
– Kiểm soát các chính sách thương mại quốc gia;
– Cung cấp sự trợ giúp về mặt kỹ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển;
– Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
Trong quá trình đàm phán gia nhập và khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia phải chấp nhận luật chơi của WTO. Nói cách khác, các quốc gia phải thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế của mình.
Trước hết, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, các quốc gia thường sử dụng đàm phán song phương. Cụ thể là, các quốc gia phải đưa ra phạm vi cam kết mở cửa thị trường, các mức cam kết cụ thể (thường là bằng hoặc thấp hơn mức hiện hành).
Thứ hai, khi đã trở thành thành viên của WTO, các quốc gia thường lựa chọn đàm phán đa phương. Khi thực hiện đàm phán đa phương, các nước đàm phán cắt giảm thuế quan theo ngành hoặc theo công thức cắt giảm thuế [42]. Việc ban hành hay tăng mới một loại thuế quan phải được cân bằng lại bằng việc giảm các loại thuế khác để bù đắp cho các nước xuất khẩu bị ảnh hưởng.
Thứ ba, các quốc gia phải chỉnh sửa luật thương mại, luật hải quan và các bộ luật liên quan để đảm bảo thực hiện đúng các nguyên tắc của WTO. Các biện pháp phi thuế quan cũng phải tuân theo các quy định của WTO. Dưới đây là một số vấn đề mà các quốc gia đang phát triển phải lưu ý khi thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế:
– Hạn ngạch thuế quan: Hạn ngạch thuế quan thuộc nhóm các biện pháp hạn chế định lượng (cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; hạn ngạch thuế quan; và cấp phép nhập khẩu không tự động). Hạn ngạch thuế quan là biện pháp được cho phép sử dụng trong khuôn khổ của WTO. Theo quy định về hạn ngạch thuế quan, hàng nhập khẩu nằm trong hạn ngạch được hưởng mức thuế suất thấp.
– Bãi bỏ việc cấp phép nhập khẩu không tự động: Các quốc gia thành viên của WTO phải thực hiện cấp phép nhập khẩu tự động (không tạo ra các thủ tục hành chính không liên quan tới mục đích hải quan hay cơ quan hành chính thích hợp).
– Thực hiện Hiệp định về trị giá hải quan: Hầu hết các thành viên của WTO đều tham gia Hiệp định về trị giá hải quan. Theo hiệp định này, các quốc gia phải tính giá thực trả hoặc phải trả khi hàng hoá được bán ra từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Các quốc gia không được áp dụng cách tính giá tối thiểu.
– Giảm thiểu sự tham gia của doanh nghiệp nhà nước: WTO yêu cầu các quốc gia thành viên thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử. Các quốc gia không được duy trì đặc quyền tham gia vào thương mại quốc tế đối với các doanh nghiệp nhà nước (đầu mối nhập khẩu chẳng hạn).
– Hàng rào bảo hộ mới đang được sử dụng: WTO cho phép áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, sức khoẻ con người và động vật nếu cần thiết. Điều này dẫn đến việc các nước phát triển thường áp dụng các hàng rào kỹ thuật (TBT) để cản trở hàng hoá của các nước khác đưa vào nước mình. Tuy nhiên, để xác định xem một hành động có bị coi là TBT hay không thì phải thẩm tra mức trở ngại mà nó tạo ra trong thương mại quốc tế. Quá trình này không có lợi cho các nước đang phát triển.
– Các biện pháp liên quan đến đầu tư (TRIMs): Các thành viên của WTO phải tuân theo nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong đầu tư. Theo đó, các quốc gia không được áp dụng các biện pháp về tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ chuyển lợi nhuận, …
– Các biện pháp quản lý về hành chính: Các thành viên của WTO không được áp dụng các biện pháp quản lý về hành chính gây trở ngại cho thương mại quốc tế như quy định về quảng cáo hay đặt cọc, địa điểm thông quan, …
WTO đề ra các nguyên tắc hoạt động đảm bảo không phân biệt đối xử trong thương mại theo đó bất kỳ nước thành viên nào đều được tạo điều kiện tốt nhất khi tham gia vào thị trường các nước thành viên khác. Mặc dù WTO được coi là ngôi nhà chung của thế giới thương mại, là một Liên hợp quốc về mặt kinh tế song vẫn còn nhiều vấn đề liên quan đến thương mại trong WTO chưa có cơ chế giải quyết như các nhóm kinh tế khu vực; môi trường và thương mại; đầu tư và thương mại; chính sách cạnh tranh; tính rõ ràng trong việc mua sắm của chính phủ; thương mại điện tử; quyền của người lao động và thương mại, đặc biệt là vấn đề nông nghiệp.
2.3. Phối hợp chính sách thương mại quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Thông thường, các lĩnh vực thương mại – đầu tư – công nghiệp – nông, lâm, ngư nghiệp do các bộ khác nhau chịu trách nhiệm do đó khi thiết kế và hoàn thiện chính sách thường gặp phải những khó khăn về phối hợp thông tin, phối hợp thiết kế và phối hợp triển khai.
Trước hết, việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế đòi hỏi phải giải quyết vấn đề về thể chế và cơ chế phối hợp. Cụ thể là cơ chế hoạt động và quyền lực của cơ quan chịu trách nhiệm chính về công tác điều phối việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế. Những câu hỏi cần được trả lời bao gồm:
- Việc hoạch định chính sách thương mại quốc tế do cơ quan nào chủ trì?
- Chính sách thương mại quốc tế được hiểu như thế nào?
- Các văn bản được coi là chiến lược và quy hoạch về phát triển thương mại quốc tế của quốc gia là những văn bản nào? Nội dung nào liên quan trực tiếp và gián tiếp tới chính sách thương mại quốc tế?
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế là gì? Cơ chế phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế đang được thực hiện ra sao? Quốc gia có một cơ quan đầu mối phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế hay không? Quy chế hoạt động của cơ quan này như thế nào?
- Lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế được gắn kết thế nào với việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước?
Thứ hai, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để gia nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực, các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá phải giải quyết tốt hai vấn đề là (i) thực hiện tự do hoá các ngành công nghiệp chế tạo; (ii) tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI. Việc phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhằm đạt các mục tiêu về nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp chế tạo và tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu của khu vực FDI, do đó, là một nội dung cần xem xét trong quá trình phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế.
Theo Krugman và Obstfeld [50], các nước đang phát triển quan tâm đến phát triển công nghiệp chế tạo. Một lý do đưa ra là khu vực công nghiệp chế tạo được coi là một dấu hiệu phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, lập luận quan trọng nhất ủng hộ bảo hộ ở các nước đang phát triển là lập luận về các ngành công nghiệp non trẻ. Chính phủ các nước đang phát triển cần giúp đỡ các ngành này bởi vì chúng còn non trẻ so với các ngành được hình thành từ lâu tại các nước phát triển. Thực tế là các nước Hoa Kỳ, Đức và Nhật đều bắt đầu quá trình công nghiệp hoá bằng việc bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo. Bảo hộ ngành công nghiệp chế tạo phải đi cùng với việc giúp cho ngành đó có khả năng cạnh tranh quốc tế. Việc bảo hộ nhầm gây tổn thất cho xã hội. Ấn Độ và Pakistan bảo hộ các ngành công nghiệp chế tạo trong hàng thập kỷ và đến thập kỷ 1990 hai quốc gia này bắt đầu xuất khẩu hàng chế tạo song hành chế tạo xuất khẩu là hàng công nghiệp nhẹ như dệt chứ không phải là hàng công nghiệp nặng được bảo hộ. Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo đối với các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá được chỉ ra trong nhiều nghiên cứu. Chẳng hạn, nghiên cứu năm 2004 của Yilmaz [159] chỉ ra rằng tăng trưởng xuất khẩu của các nước đang phát triển có nguồn gốc từ hàng chế tạo (chiếm 70% xuất khẩu của các nước đang phát triển). Nghiên cứu của Weiss và Jalilian [160] chỉ ra rằng tỷ trọng hàng xuất khẩu chế tạo của các nước Đông và Đông Nam Á trong tổng số hàng xuất khẩu chế tạo của thế giới cao hơn nhiều so với tỷ trọng hàng chế tạo được sản xuất của họ trong trong tổng số hàng chế tạo được sản xuất của thế giới. Trên giác độ phối hợp hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế, vấn đề phát triển hàng công nghiệp chế tạo yêu cầu các quốc gia phải trả lời các câu hỏi sau đây trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế:
- Tập trung bảo hộ những ngành chế tạo nào? Lộ trình bảo hộ như thế nào trong điều kiện gia tăng tự do hoá thương mại?
- Các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế khuyến khích sự phát triển của các ngành theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế và giá trị gia tăng của ngành?
- Việc áp dụng lộ trình tự do hoá hay bảo hộ một ngành và các công cụ đi kèm nên hướng vào các đối tác nào? Đối tác đầu tư nào hay các doanh nghiệp nào đang góp phần gia tăng xuất khẩu ngành công nghiệp chế tạo nào? Những khuyến khích nào nên được áp dụng trong tương lai và thông qua các công cụ nào của chính sách thương mại quốc tế?
Phát huy khu vực FDI để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế và thâm nhập thị trường thế giới được xem là một biện pháp lý tưởng đối với các quốc gia đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế [142]. Các nghiên cứu trước đây cho thấy vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo động lực để khuyến khích xuất khẩu, thay thế nhập khẩu hay tăng cường thương mại các hàng hoá trung gian, đặc biệt giữa công ty mẹ và chi nhánh ở nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản tại Đông Nam Á làm tăng xuất khẩu từ các nước này tới Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Đông Nam Á làm tăng xuất khẩu từ các nước này tới Nhật Bản nhưng không làm tăng xuất khẩu sang Hoa Kỳ như trong nghiên cứu của Goldberg và Klein [114], nghiên cứu thực hiện năm 2004 của Lemi [130]. Câu hỏi cơ bản đặt ra đối với việc hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế nhằm thúc đẩy xuất khẩu của khu vực FDI là các công cụ của chính sách thương mại quốc tế cần được thực hiện như thế nào để đạt được mục tiêu khuyến khích doanh nghiệp FDI tăng cường thương mại các hàng hoá trung gian giữa các chi nhánh, khuyến khích các doanh nghiệp trong nước liên kết với các doanh nghiệp FDI, tận dụng kỹ năng marketing của các doanh nghiệp FDI để xuất khẩu vào các thị trường, cũng như thu hút và khuyến khích các doanh nghiệp FDI Hoa Kỳ và Nhật Bản tăng cường xuất khẩu tới các thị trường.
Việc phối hợp về lộ trình thay đổi; nội dung thực hiện các công cụ thuế quan và phi thuế quan của chính sách thương mại quốc tế giữa các bộ, ngành, và các bên liên quan ảnh hưởng tới việc giải quyết các vấn đề này.
Để lại một bình luận