Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về nhu cầu bảo hiểm y tế của nông dân. Nếu bạn chọn chủ đề này làm luận văn thì đừng bỏ lỡ bài viết này nhé.
1. Lý luận về bảo hiểm y tế
1.1. Các khái niệm
Bảo hiểm
Theo Nguyễn Văn Định (2008): “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy định thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia phải nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp các khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người tham gia bảo hiểm lấy quỹ dự trữ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia.
Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm là góp phần ổn định kinh tế cho người tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước (Nguyễn Văn Định, 2008).
Thực chất của bảo hiểm là quá trình phân phối lại tổng sản phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính phát sinh tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra tổn thất đối với người tham gia bảo hiểm (Vũ Văn Phúc, 2012).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên tắc này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như trong quá trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro (Nguyễn Viết Vượng, 2006).
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn bó các thành viên trong xã hội cùng vì lợi ích chung của cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước. “Số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của mỗi thành viên (Đỗ Văn Quân, 2008a).
Bảo hiểm y tế
Năm 1883, ở nước Phổ (Cộng hoà liên bang Đức ngày nay) đã ban hành Luật BHYT, bộ luật đầu tiên về BHYT trên thế giới. Khi mới ra đời, người ta cho rằng: BHYT là hình thức bảo hiểm áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ do nhà nước và cá nhân tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật (Bộ Y tế, 2013). Tổ chức lao động quốc tế (ILO) cho rằng: BHYT là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm sóc sức khoẻ, khám bệnh và chữa bệnh cho người dân (Tổ chức lao động quốc tế, 1952).
Việt Nam cũng có nhiều nhà nghiên cứu và học giả đưa ra khái niệm về BHYT. Có quan điểm cho rằng, BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện nhằm huy động nguồn lực tài chính của Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và cộng đồng để hình thành quỹ chi trả chi phí KCB cho người tham gia BHYT theo quy định của Pháp luật.
Các doanh nghiệp bảo hiểm thương mại cũng triển khai BHYT và họ cho rằng: BHYT là hình thức bảo hiểm, bảo hiểm cho những chi phí y tế phát sinh liên quan đến những rủi ro về sức khoẻ của người tham gia bảo hiểm.
Sở dĩ có sự khác nhau về khái niệm là vì:
BHYT có hai hình thức khác nhau, đó là: BHYT xã hội và BHYT tư nhân vì mục tiêu lợi nhuận. BHYT xã hội là một chính sách xã hội do Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện. Hình thức bảo hiểm này không vì mục tiêu lợi nhuận mà vì sức khoẻ của cộng đồng, giúp cộng đồng thanh toán các chi phí y tế phát sinh khi gặp phải rủi ro trong cuộc sống, trong lao động sản xuất. Còn BHYT tư nhân thường do các doanh nghiệp bảo hiểm thương mại tổ chức triển khai, mục tiêu của hình thức bảo hiểm này là lợi nhuận, tính xã hội rất hạn chế. Tuy nhiên, hình thức bảo hiểm y tế tư nhân vẫn được triển khai ở nhiều nước trên thế giới (Nguyễn Văn Định, 2012).
Cũng vì lý do trên mà phương thức huy động để hình thành quỹ BHYT cũng khác nhau. Với loại hình BHYT xã hội, ngoài các cá nhân và tổ chức tham gia đóng góp thì Nhà nước hỗ trợ và bảo trợ rất nhiều. Hỗ trợ phí BHYT cho các nhóm đối tượng yếu thế, nhất là trong thời kỳ đầu mới triển khai và bảo trợ cho quỹ BHYT khi cần thiết. Còn quỹ BHYT vì mục tiêu lợi nhuận cũng được huy động từ người tham gia đóng góp, nhưng không có sự bảo trợ và hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân phải tự cân đối thu – chi.
Loại hình BHYT được nghiên cứu ở đây là BHYT xã hội vì Việt Nam luôn hướng tới loại hình BHYT này. Bởi vậy, khái niệm về BHYT được xác định rõ trong Luật BHYT 2008: BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực CSSK, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định (Quốc hội, 2008).
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
Nếu đứng trên góc độ tài chính y tế và vấn đề công bằng trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thì:
BHYT xã hội gồm có: BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện và BHYT xã hội dựa vào cộng đồng (thực chất là BHYT toàn dân mà đại đa số các nước trên thế giới hướng tới, trong đó có Việt Nam).
Bảo hiểm y tế bắt buộc là hình thức BHYT được thực hiện trên cơ sở bắt buộc đối với người tham gia. BHYT BB được thực hiện với những người lao động có quan hệ lao động, tức những người lao động làm công ăn lương. Tính chất bắt buộc được thể hiện trong luật pháp, mức đóng góp vào quỹ BHYT do cá nhân người lao động và người sử dụng lao động thực hiện. Loại hình BHYT BB được thực hiện khá dễ dàng và được nhiều nước áp dụng cho đến nay.
Bảo hiểm y tế tự nguyện là hình thức BHYT được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham gia. BHYT TN là một hướng mở rộng diện bao phủ của BHYT nói chung. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của nhiều nước, loại hình BHYT này không khả quan, bởi người dân ít quan tâm và phí BHYT khá cao so với khả năng của họ. Đặc biệt tỷ lệ tham gia của người ốm cao hơn so với những người dân bình thường nói chung và hậu quả là, khả năng đứng vững của BHYT tự nguyện rất khó nếu như không tăng phí bảo hiểm.
Bảo hiểm y tế xã hội dựa vào cộng đồng (BHYT toàn dân) luôn là sự lựa chọn của đại đa số các quốc gia trên thế giới hiện nay do những ưu điểm vượt trội của nó.
Bảo hiểm y tế của người nông dân là hình thức bảo hiểm y tế được thực hiện trên cơ sở tự nguyện tham gia của người nông dân.
Người bệnh thuộc đối tượng bảo hiểm y tế là người bệnh có BHYT bắt buộc hoặc tự nguyện, khi KCB được hưởng chế độ KCB và thanh toán chi phí KCB theo quy định của cơ quan có thẩm quyền (Giang Thanh Long, 2008).
Bảo hiểm y tế tư nhân: Loại hình BHYT này lấy mục tiêu lợi nhuận làm chủ yếu, vì thế nó không đáp ứng được các tiêu chí công bằng và hiệu quả. Quỹ thu được chỉ sử dụng cho những người có khả năng nộp phí BHYT, cho nên đã làm gia tăng sự mất công bằng xã hội trong tiếp cận các dịch vụ y tế có chất lượng cao. Bởi vậy, loại hình BHYT này chỉ có thể là bổ sung, chứ không thay thế được loại hình BHYT xã hội.
Chính sách bảo hiểm y tế: Theo quy định của pháp luật nước ta, BHYT là một CSXH do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, các tổ chức và cá nhân để hỗ trợ, CSSK, KCB cho người dân ở nông thôn khi gặp rủi ro sức khoẻ và KCB cho người có thẻ BHYT khi ốm đau.
Như vậy, nội hàm của khái niệm trên thể hiện rất rõ những đặc trưng sau:
Chính sách bảo hiểm y tế là một chính sách ASXH của Nhà nước, vì vậy nó cũng chính là một chính sách xã hội; (2) Quỹ BHYT được hình thành từ sự đóng góp của cộng đồng những người tham gia và có sự hỗ trợ, bảo trợ của Nhà nước khi cần thiết; (3) Bảo hiểm y tế mang tính chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia; giữa những người bị ốm đau bệnh tật với những người khoẻ mạnh; giữa Nhà nước và người dân; (4) Hoạt động của BHYT không vì mục tiêu lợi nhuận.
1.2. Bản chất của bảo hiểm y tế
Quá trình ra đời và phát triển cho thấy, bản chất của BHYT thể hiện chủ yếu ở những nội dung sau đây:
Bảo hiểm y tế là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường. Kinh tế càng phát triển thì BHYT càng đa dạng và phát triển. Vì thế, có thể nói kinh tế vẫn luôn là nền tảng của BHYT hay BHYT không vượt khỏi trạng thái kinh tế của mỗi nước (Nguyễn Văn Định, 2012).
Xét cho cùng thì BHYT cũng góp phần phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia đóng góp để hình thành quỹ. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người không may bị ốm đau, bệnh tật. Chắc chắn, số người ốm đau, bệnh tật phải ít hơn tổng số người tham gia đóng góp, vì thế tính san sẻ tài chính, chia sẻ rủi ro luôn là nội dung quan trọng nói lên bản chất của BHYT (Đỗ Văn Quân, 2008a).
Mối quan hệ trong BHYT có thể là nhiều bên, tuỳ theo loại hình BHYT. Chẳng hạn, trong BHYT bắt buộc thì đó là mối quan hệ 3 bên: Người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHYT. Còn trong BHYT toàn dân, BHYT tự nguyện, mối quan hệ có thể là cả 3 bên, cũng có thể chỉ là 2 bên, người dân tham gia với cơ quan BHYT. Tuy nhiên, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với BHYT luôn có vị trí vô cùng quan trọng. Có thể, Nhà nước sẽ hỗ trợ về chi phí BHYT cho một số đối tượng gặp khó khăn trong cộng đồng; có thể bảo trợ cho quỹ BHYT khi cần thiết, hỗ trợ một phần chi phí, viện phí cho người có thẻ BHYT (Nguyễn Văn Định, 2012).
Bảo hiểm y tế ra đời luôn được ví như một chất keo gắn kết các thành viên trong cộng đồng xã hội. Bởi chi cho BHYT là cách thức phải chi ít nhất, nhưng lại có hiệu quả nhất để đảm bảo CBXH, góp phần ổn định chính trị, KTXH (Đỗ Văn Quân, 2008a).
1.3. Vai trò của chính sách bảo hiểm y tế trong phát triển nông nghiệp, nông thôn
Có thể nói, ngay từ Đại hội Đảng VI, từ khi bắt đầu đề ra đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã có định hướng lý luận đúng đắn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, do đó góp phần vào thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng, từng bước ổn định và đi vào thời kỳ phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Cũng qua quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội, quan điểm lý luận của Đảng ta về các CSXH, về giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với TBXH ngày càng hoàn thiện hơn. Trong khu vực nông thôn cũng vậy, mục tiêu phát triển là tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng yêu cầu phải đảm bảo công bằng xã hội (Phạm Xuân Nam, 2012; Hoàng Hà, 2011).
Đảng ta coi nông nghiệp, nông thôn là một trọng điểm cần tập trung khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đề ra những giải pháp chiến lược phát triển nông thôn, tập trung mọi nguồn lực thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Cấu trúc của hệ thống ASXH ở nước ta gồm 3 trụ cột: BHXH (bao gồm cả BHYT, bảo hiểm thất nghiệp); ưu đãi xã hội, bảo trợ xã hội (gồm trợ giúp xã hội và cứu trợ xã hội). Xét về thực chất, 3 trụ cột này nhằm thể hiện 3 chức năng: phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến ASXH là quá trình toàn cầu hóa, vấn đề thất nghiệp và nghèo đói, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông, tham nhũng, chiến tranh, khủng bố, bất bình đẳng xã hội,… (Dương Văn Thắng, 2014).
Tính trụ cột của BHXH, BHYT trong hệ thống ASXH thể hiện vai trò, trách nhiệm của Nhà nước đối với việc bảo đảm cuộc sống cho người lao động và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân; tạo được sự đoàn kết, tương thân, tương ái mang tính cộng đồng, chia sẻ rủi ro, giúp đỡ nhau vượt qua lúc khó khăn, hoạn nạn do đau ốm hoặc tuổi già, tai nạn, thất nghiệp… Thực hiện được mục tiêu BHXH cho mọi người lao động, BHYT toàn dân thì hệ thống ASXH quốc gia ngày càng vững mạnh, giảm bớt gánh nặng chi từ nguồn ngân sách nhà nước, giúp Nhà nước tập trung nguồn lực thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược – xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Dương Văn Thắng, 2014).
1.4. Đặc điểm của bảo hiểm y tế
Theo Nguyễn Văn Định (2012), Bảo hiểm y tế có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đây là một CSXH có đối tượng rất rộng, đa dạng, diện bao phủ lớn, cho nên nó phải được luật hoá. Vì vậy, việc tổ chức triển khai chính sách này luôn gặp phải những khó khăn phức tạp. Bởi thế, chính sách BHYT phải được nghiên cứu, ban hành cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển KTXH của đất nước. Nguyên tắc chung mà các nước vận dụng khi thực hiện là đi từ đơn giản đến phức tạp, từ một nhóm đối tượng cụ thể, có điều kiện tham gia, đến toàn dân.
Thứ hai, BHYT hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Điều này thể hiện rõ nhất là toàn bộ phí bảo hiểm thu được, chủ yếu dùng để phục vụ công tác khám chữa bệnh cho người dân. Nhà nước, các cơ quan quản lý tuyệt đối không sử dụng nguồn tài chính này vào việc chi tiêu cho các mục đích khác. Hơn nữa, Nhà nước còn trích từ ngân sách hàng năm để mua thẻ BHYT miễn phí cho người nghèo, trẻ em, cho những người tàn tật … Đồng thời còn bảo trợ cho quỹ BHYT khi cần thiết, nhất là trong điều kiện mất cân đối quỹ BHYT.
Thứ ba, BHYT luôn thể hiện rõ tính kinh tế, tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn cao cả. Tính kinh tế trong BHYT thể hiện rõ nhất ở quá trình hình thành và sử dụng quỹ, thông qua các hoạt động thu chi và đầu tư quỹ nhàn rỗi. Tính nhàn rỗi thể hiện khá toàn diện, bởi đối tượng tham gia loại hình bảo hiểm này sẽ là mọi người dân trong xã hội, không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… Tính nhân đạo và nhân văn của BHYT thể hiện ở chính mục tiêu của chính sách này. Với nguyên tắc “số đông bù số ít”, BHYT đã giúp người dân, nhất là người nghèo, phân tán được rủi ro và chia sẻ được tài chính giữa những người tham gia.
Thứ tư, nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu của chính sách BHYT luôn gặp phải những khó khăn, phức tạp do đối tượng đông, diện bao phủ rộng, giá cả các dịch vụ y tế lại có xu hướng ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, Chính phủ các nước khi triển khai BHYT phải tính đến các vấn đề sau: (1) Việc triển khai BHYT phải theo nhu cầu, khả năng chi trả và nhận thức của người dân; (2) Khả năng phân bổ nguồn lực cho các vùng dựa trên sự đánh giá nhu cầu và các dịch vụ y tế có liên quan các yếu tố kinh tế xã hội và cơ cấu độ tuổi của người dân;
Khả năng chia sẻ gánh nặng chi phí y tế: Người khoẻ mạnh hỗ trợ người ốm, người giàu hỗ trợ người nghèo, người trong độ tuổi lao động hỗ trợ người ngoài độ tuổi lao động.
Thứ năm, việc xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện chính sách BHYT ở các nước khác nhau là khác nhau. Bởi mỗi nước đều có những điểm đặc thù về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và lịch sử. Ngay trong một nước cũng có thể phải thực hiện khác nhau giữa các thời kỳ.
2. Lý luận về nhu cầu, cầu bảo hiểm y tế của nông dân
2.1. Các khái niệm
Nhu cầu, các loại nhu cầu:
Theo Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, năm (2011): Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
Theo quan niệm của Mác: Nhu cầu là đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện nhất định, đảm bảo cho sự sống và phát triển của mình (dẫn theo Nguyễn Thu Huyền, 2013).
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu cầu tuyệt đối, đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa (Nguyễn Bá Minh, 2006).
Theo Kotler (1996): Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được. Nhu cầu của con người là một tập hợp đa dạng và phức tạp, từ những nhu cầu có tính chất bản năng sinh tồn như ăn, uống, mặc, ở… đến những nhu cầu về tình cảm trí thức, tôn trọng, tự thể hiện mình. Những nhu cầu đó gắn liền với tình cảm của con người, gắn liền với sự phát triển của xã hội mà mỗi người sống trong đó.
Về các loại nhu cầu, trong nghiên cứu này chúng tôi dựa theo Nguyễn Bá Minh (2006) chia nhu cầu con người dựa theo các tiêu chuẩn khác nhau:
Căn cứ vào đối tượng có 2 loại nhu cầu: Nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần.
Nhu cầu vật chất là nhu cầu cơ bản bảo đảm sự tồn tại của con người: Nhu cầu thức ăn thức uống, nhà cửa, quần áo… Nhu cầu vật chất được phát triển cùng sự tiến bộ của xã hội.
Nhu cầu tinh thần được nảy sinh trên cơ sở của nhu cầu vật chất và được nhu cầu vật chất nuôi dưỡng. Nhu cầu tinh thần làm cho nhu cầu vật chất biến dạng cao thường làm phức tạp thêm. Nhu cầu tinh thần cũng vô cùng đa dạng: Nhu cầu học tập, nhu cầu làm khoa học nghệ thuật, chính trị, nhu cầu công bằng xã hội.
Nhu cầu tinh thần phát triển không ngừng. Việc tìm cách thỏa mãn các nhu cầu ngày càng làm cho xã hội phát triển.
Dựa trên khái niệm về nhu cầu nêu trên, chúng tôi cho rằng nhu cầu bảo hiểm y tế là đòi hỏi khách quan của mỗi con người trong những điều kiện, khả năng, thị hiếu nhất định đảm bảo cho việc KCB, chăm sóc sức khoẻ của mình.
Cầu, các loại cầu:
“Cầu là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng (với tư cách là người mua) có khả năng và sẵn lòng mua ở các mức giá khác nhau (mức giá chấp nhận được) trong phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi”. Khi nói đến cầu thì không thể không nhắc đến lượng cầu. Lượng cầu: là số lượng hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng mua ở một mức cụ thể khi các yếu tố khác không thay đổi (Nguyễn Văn Song, 2012).
Cầu cá nhân và cầu thị trường: Cầu là nhu cầu cộng với khả năng thanh toán cho nhu cầu đó; cầu cá nhân là sự cần thiết của một cá thể về một hàng hóa hay dịch vụ nào đó mà cá thể sẵn sàng có khả năng thanh toán cho hàng hóa hay dịch vụ đó. Khi cầu của toàn thể các cá thể đối với một mặt hàng trong một nền kinh tế gộp lại, ta có cầu thị trường (Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, 2011).
Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu bao gồm: Sở thích và thị hiếu; thu nhập; giá cả hàng hóa liên quan; số lượng người tiêu dùng; kỳ vọng của người tiêu dùng về giá và thu nhập; phong tục tập quán (Nguyễn Văn Định, 2012).
Từ các khái niệm về cầu nêu trên, chúng tôi cho rằng cầu bảo hiểm y tế là số lượng dịch vụ y tế mà người tiêu dùng (với tư cách là người mua) có khả năng và sẵn lòng mua ở các mức giá khác nhau (mức giá chấp nhận được) trong phạm vi không gian và thời gian nhất định khi các yếu tố khác không thay đổi.
2.2. Đặc điểm của nhu cầu, cầu bảo hiểm y tế
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng, khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự thỏa mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng; nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thỏa mãn nó quy định và ảnh hưởng tới nhu cầu; thông thường nhu cầu có tính định kỳ; và nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật, vì nhu cầu của con người luôn hướng tới và thỏa mãn trong dài hạn, nhiều thế hệ; ngược lại nhu cầu của con vật hầu như chỉ cho tức thời hoặc ngắn hạn (Nguyễn Văn Song, 2012).
Nhu cầu về BHYT có đặc trưng riêng là nhu cầu chăm sóc sức khoẻ định kỳ ổn định, KCB theo các dịch vụ có chính sách, có sự chia sẻ, được hỗ trợ kinh phí, họ chỉ phải chi trả mức độ phù hợp.
2.3. Nội dung nghiên cứu nhu cầu bảo hiểm y tế của người nông dân
Nghiên cứu nhu cầu BHYT của người nông dân thực chất là nghiên cứu nông dân có nhu cầu KCB như thế nào? Nhu cầu dịch vụ của BHYT ra sao? Và tiềm năng thu hút người nông dân tham gia BHYT ra sao? Vì vậy, với mục tiêu tiến tới thực hiện BHYT toàn dân, các nội dung nghiên cứu nhu cầu BHYT của người nông dân gồm:
(1) Xác định nhu cầu tham gia và cầu bảo hiểm y tế của người nông dân Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 đã chi tiết hoá mục tiêu: “Phát triển hệ thống ASXH đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm như BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm”. Từ quan điểm định hướng này, muốn thu hút ngày càng nhiều nông dân tham gia BHYT thì cần phải nâng cấp cơ sở vật chất KCB, nghiên cứu và cung cấp các gói dịch vụ y tế phù hợp với từng đối tượng, trong từng điều kiện hoàn cảnh. Vì vậy, việc xác định nhu cầu tham gia BHYT của nông dân cần dựa vào nhu cầu theo những nhân tố quyết định, cụ thể: (i) Nhận thức của nông dân về thực trạng hoạt động quản lý KCB; (ii) Nhận thức của nông dân về chính sách BHYT; (iii) Lý do tham gia BHYT của nông dân; (iv) Đánh giá của nông dân khi tham gia BHYT;
Nhu cầu tham gia bảo hiểm BHYT của nông dân theo độ tuổi; (vi) Nhu cầu tham gia bảo hiểm BHYT của nông dân theo thu nhập; (vii) Nhu cầu tham gia BHYT của nông dân theo mức phí BHYT.
Dự báo nhu cầu dịch vụ y tế và tiềm năng thu hút người nông dân tham gia BHYT
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới CSXH mà trụ cột là BHXH và BHYT, Đảng ta đã xác định, việc đổi mới hệ thống BHXH, BHYT có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình đổi mới toàn diện kinh tế – xã hội đất nước. Bên cạnh đó, Đảng ta nêu rõ định hướng nhất quán, khẳng định con đường chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân tốt nhất trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thực hiện BHYT toàn dân, phấn đấu đến năm 2020 có trên 80% dân số tham gia BHYT. Từ định hướng này, dự báo nhu cầu DVYT sẽ tăng cao và tiềm năng thu hút người nông dân tham gia BHYT là khả thi, có căn cứ. Nếu cơ sở vật chất KCB đáp ứng tốt, việc tổ chức thực hiện tốt các DVYT, BHYT thì khả năng thu hút người nông dân tham gia BHYT có thể đạt được tỷ lệ 100% (Dương Văn Thắng, 2014).
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu bảo hiểm y tế của người nông dân
Các yếu tố thuộc về người nông dân
(i) Nhận thức của người nông dân:
Phần lớn người nông dân ở nước ta có trình độ dân trí thấp, họ ít được học hành và va chạm xã hội, bởi vậy khả năng nhận thức các vấn đề về xã hội hay chính sách còn rất hạn chế. Ngay khi chính sách ấy phục vụ lợi ích thiết thực cho chính bản thân họ, thế nhưng họ vẫn thờ ơ ít quan tâm tìm hiểu. Do đặc điểm về trình độ dân trí và mức độ nhận thức của nông dân còn thấp, nên hầu hết người nông dân chưa hiểu đầy đủ mục đích, ý nghĩa, lợi ích đối với bản thân khi tham gia BHYT. Vì vậy, công tác tuyên truyền cần được lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ hơn, vừa tập trung vừa có tính trọng điểm. Từ đó, không ngừng nâng cao nhận thức cho các cấp, các ngành và mọi người dân trong xã hội thấy rõ phương hướng, chủ trương xã hội hoá về công tác BHYT của Đảng và Nhà nước, nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội để đẩy mạnh công tác ASXH của đất nước.
Khi chưa có BHYT, bản thân người nông dân tự bản thân hoặc gia đình mình phải lo trang trải chi phí khi đi khám chữa bệnh, việc trợ giúp của cộng đồng là không có hoặc không đáng kể. Người nông dân rơi vào tình trạng bị động, bán nhà cửa và các tài sản khác để đối phó với đau ốm, bệnh tật. Không ít trường hợp người nông dân đã phải trốn viện, bỏ mặc tính mạng do không có tiền chữa trị bệnh tật. Khi đã có BHYT, họ như có tấm bùa hộ mệnh, không còn phải lo về khoản viện phí khi có nhu cầu khám chữa bệnh.
Nhờ thực hiện chế độ BHYT, người nông dân từ bị động đã chuyển sang chủ động phòng ngừa khó khăn về tài chính khi bệnh tật, đau ốm. Thông qua việc tham gia BHYT, họ đã chủ động đóng góp vào quỹ BHYT để giúp đỡ người khác không may đau ốm phải KCB tại bệnh viện. Khi đau ốm họ được quỹ BHYT trợ giúp kịp thời. Trong cuộc đời mỗi người, rủi ro đau ốm có tính chất thường xuyên, phổ biến và hầu như không ai tránh khỏi. Chi phí y tế là một chi phí thiết yếu và là một trong những chi phí tốn kém nhất trong đời sống xã hội. Người tham gia BHYT thực chất là đóng góp để giúp đỡ người khác chứ không phải chỉ là đóng góp cho mình. Do đó, việc thực hiện BHYT cho người nông dân góp phần tích cực nâng cao ý thức chăm lo và tự bảo vệ sức khỏe cho bản thân họ, gia đình họ và cho cả cộng đồng. Các nhà nghiên cứu bảo hiểm cho rằng: Xã hội càng phát triển, các loại hình dịch vụ bảo hiểm càng đa dạng và bản chất xã hội của nó càng thể hiện rõ nét hơn. Con người trong mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh đều cần đến sự hỗ trợ của bảo hiểm”.
Nhận thức của người dân ảnh hưởng rất lớn đến việc mua BHYT. Người nông dân rất thực tế, tức là họ phải nhìn thấy quyền lợi có thật. Nếu người dân được ngành BHXH, cơ sở KCB BHYT, chính quyền địa phương các cấp quan tâm cung cấp đầy đủ thông tin, nắm rõ các quy định về chế độ, chính sách BHYT thì rất có thể họ sẽ tham gia BHYT ngày một nhiều hơn, tuy nhiên yếu tố này chưa được quan tâm đúng mức (Dương Văn Thắng, 2014).
Điều kiện kinh tế: Điều kiện kinh tế là điều kiện tiên quyết và trực tiếp để người nông dân có hoặc không tham gia mua BHYT, nó liên quan đến việc đóng góp để hình thành quỹ BHYT. Có thể nói nhu cầu của người dân tham gia BHYT là rất lớn nhưng vì mức thu nhập còn thấp nên còn gặp khó khăn. Mặc dù sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển, nhưng trên thực tế cho thấy thu nhập của người nông dân còn rất thấp so với người dân thành thị. Hơn nữa, thu nhập của người nông dân lại rất bấp bênh, có tính chất thời vụ, thu nhập có thể bằng tiền cũng có khi lại bằng hiện vật nên khó xác định. Với tốc độ phát triển của nền kinh tế như hiện nay, người nông dân không có điều kiện để tích luỹ, dự phòng khi gặp các trường hợp rủi ro không may xảy ra.
Độ tuổi: Ảnh hưởng của độ tuổi, giới tính và nhất là ảnh hưởng của tâm lý người dân về BHYT cũng tác động không nhỏ đến nhu cầu tham gia BHYT. Do khả năng tiếp cận chính sách BHYT chưa nhiều, đặc biệt là người dân ở các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa hay nông thôn chưa hiểu biết nhiều về chính sách BHYT. Đa số người dân chỉ khi ốm đau mới đi KCB, mới thấy được tầm quan trọng của BHYT. Khi còn trẻ, thường có sức khoẻ tốt, chỉ quan tâm đến làm việc để nâng cao thu nhập nên chưa quan tâm đến KCB. Khi tuổi cao, sức khoẻ giảm sút thường phát sinh bệnh tật, lúc này người dân mới quan tâm đến việc KCB, chi phí bỏ ra nhiều, ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế của người dân nên họ mới quan tâm đến việc mua BHYT để giảm chi phí KCB.
Các yếu tố thuộc về cơ quan khám chữa bệnh
Chính phủ, Bộ Y tế cần tăng cường chỉ đạo việc củng cố và phát triển mạng lưới KCB, nâng cao chất lượng KCB BHYT, tăng cường các cơ sở y tế tư nhân tham gia KCB BHYT cho người tham gia BHYT để nâng cao vai trò, khả năng cạnh tranh giữa các cơ sở KCB BHYT, từ đó nâng cao chất lượng KCB BHYT, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của nhân dân khi ốm đau, bệnh tật.
Về trách nhiệm quản lý chất lượng KCB, Cục Quản lý KCB Bộ y tế là cơ quan quản lý chuyên ngành, giúp Bộ trưởng Bộ Y tế thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực KCB, điều dưỡng, phục hồi chức năng…trong đó có việc bảo đảm an toàn, chất lượng dịch vụ KCB. Những quy định về quản lý chất lượng KCB mang tính chất định tính nên rất phức tạp, một văn bản thường áp dụng trong một khoảng thời gian rất dài nên ảnh hưởng không nhỏ tới công tác quản lý quỹ KCB BHYT.
Các quy định về xác định chi phí trong các dịch vụ y tế kỹ thuật, tuyến chuyên môn kỹ thuật, vật tư y tế tiêu hao, chi phí xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh thường chưa sát thực tế, chưa tính đúng, tính đủ, mỗi tỉnh thành lại có chi phí khác nhau đối với cùng dịch vụ kỹ thuật. Việc đấu thầu, cung ứng thuốc trong các cơ sở KCB hiện nay đang thực hiện theo Thông tư số 10/2012 về việc hướng dẫn đấu thầu trong các cơ sở y tế công lập. Theo quy định này, các cơ sở KCB có trách nhiệm tổ chức đấu thầu mua thuốc, nhưng không quy định sự tham gia đấu thầu của đại diện ngành BHXH, nơi được giao quản lý quỹ BHYT. Vậy nên, cần có quy định rõ cơ quan BHXH là thành phần chính thức trong các hội đồng đấu thầu thuốc y tế.
Các yếu tố thuộc về cơ quan quản lý và cơ chế chính sách
Chính sách BHYT phải luôn đảm bảo yêu cầu tự nguyện cho đối tượng tham gia cả về mức đóng, phương thức đóng, mức hưởng quyền lợi và phương thức quản lý. Nghĩa là phải có cơ chế đa dạng, phong phú và phù hợp với nhiều loại đối tượng tiềm năng của loại hình này. Bên cạnh đó đảm bảo quyền bình đẳng và sự công bằng cho mọi người khi tham gia loại hình BHYT trong việc đóng góp và hưởng thụ BHYT.
Hiện nay, người nông dân tham gia BHYT còn rất thấp so với tiềm năng sẵn có của mỗi địa phương. Nguyên nhân là do đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, trong khi đó mức đóng BHYT còn khá cao so với khả năng, thu nhập của người dân. Trên thực tế nhu cầu tham gia BHYT của nông dân là rất lớn, tuy nhiên việc triển khai BHYT cho người nông dân đạt tỷ lệ rất thấp, chủ yếu những người bị bệnh mới mua. Đây chính là vấn đề thuộc về chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc mở rộng diện bao phủ BHYT, thúc đẩy nông dân tham gia. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ người nông dân trong việc mua thẻ BHYT, đồng thời thực hiện đồng bộ các chính sách có liên quan đến chế độ, chính sách BHYT, tránh tình trạng chồng chéo, một người có nhiều thẻ BHYT, trong khi người nông dân lại không được hỗ trợ để tham gia BHYT.
Ở đây, vai trò quản lý của Nhà nước về BHYT là rất quan trọng, thể hiện chỗ Nhà nước “tạo ra” khung chính sách, pháp luật về BHYT toàn dân, đồng thời, Nhà nước cũng là người bảo trợ, người tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ và tạo điều kiện cho hệ thống sự nghiệp BHYT hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao nhằm thực hiện tốt các chế độ chính sách BHYT cho nông dân tự nguyện tham gia.
Giảm thủ tục hành chính đối với người tham gia BHYT khi đi KCB BHYT tại các cơ y tế để tăng tỷ lệ tự nguyện tham gia BHYT của người dân, góp phần giảm mất cân đối giữa thu chi quỹ BHYT. Nhà nước cần rà soát loại bỏ những thủ tục không cần thiết tạo điều kiện cho người có thẻ BHYT khi đi KCB nói chung và người có thẻ BHYT tự nguyện nói riêng.
Để lại một bình luận