Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn những nội dung khái quát liên quan đến công cụ phái sinh: Các khái niệm cơ bản, các loại công cụ phái sinh, điều kiện chung đối với các công cụ phái sinh và vai trò – ứng dụng của công cụ phái sinh.
1. Các khái niệm cơ bản
Công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ đã tuyên bố rằng: Chỉ những tài sản được bảo vệ hoàn toàn trên cơ sở những công cụ phái sinh mới được xem là có chất lượng cao trong quá trình phân loại tài sản và đánh giá mức độ hợp lý về vốn. Điều này đã khẳng định được tầm quan trọng của công cụ tài chính phái sinh trong việc phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
Khái niệm “phái sinh” xuất hiện từ thời đại của Kinh thánh với ý nghĩa chỉ sự xuất xứ, phát sinh của một vật hay một sự kiện nào đó. “Công cụ phái sinh hay hợp đồng phái sinh là một tài sản có giá trị trong tương lai phụ thuộc vào giá trị của một hay một số các tài sản tài chính cơ sở tại thời điểm hợp đồng được ký kết. Nó được xây dựng trên cơ sở kết hợp hai hay nhiều công cụ tài chính cơ bản (bao gồm các loại chứng khoán và các hợp đồng tài chính).” [6, tr. 25] Từ những công cụ tài chính truyền thống đến nay đã xuất hiện các công cụ mới như: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, hợp đồng hoán đổi lãi suất.
Công cụ phái sinh là một công cụ đa năng, giúp doanh nghiệp giải quyết được các bài toán về quản lý rủi ro tài chính. Nó cho phép các doanh nghiệp chuyển rủi ro sang các định chế tài chính khác sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Việc đưa các công cụ phái sinh vào thị trường giúp làm giảm những biến động của thị trường và làm tăng giá của tài sản. Trải qua hàng nghìn năm, các hợp đồng phái sinh đã thể hiện được vai trò của nó trong thương mại tài chính.
Thứ nhất là vai trò quản lý rủi ro giá cả (risk management)
Các công cụ phái sinh cung cấp một cơ chế hiệu quả cho phép phòng tránh rủi ro cho các doanh nghiệp. Chẳng hạn như một nhà sản xuất dự kiến giá gạo có khả năng sụt giảm mạnh sau vụ mùa, anh ta sẽ sử dụng hợp đồng tương lai bán gạo theo giá định trước nhằm tránh rủi ro giá cả của mặt hàng này.
Thứ hai là một công cụ đầu cơ của nhà kinh doanh. Khi dự đoán xu hướng biến đổi trong tương lai về giá, lãi suất, nhà kinh doanh có thể tận dụng để kiếm lợi nhuận.
Tóm lại, “công cụ phái sinh chính là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài chính khi thực hiện các hợp đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên.” [35]
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
2. Các loại công cụ phái sinh
Theo định nghĩa ở trên, công cụ phái sinh là một công cụ tài chính mà giá trị của công cụ này được quy định dựa trên (hay xuất phát từ) giá trị của các hàng hóa cơ sở. Các hàng hóa cơ sở này có thể bao gồm hàng nông sản, các loại ngoại tệ, các chứng khoán hay lãi suất ngân hàng,…
Các công cụ phái sinh được chia thành bốn loại chủ yếu sau: hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn và hợp đồng hoán đổi.
2.1. Hợp đồng kỳ hạn
Trong số bốn công cụ phái sinh được đề cập đến trong luận văn thì hợp đồng kỳ hạn là công cụ ra đời sớm nhất và do vậy cũng là loại công cụ quen thuộc nhất.
Người ta cho rằng những hợp đồng kỳ hạn lần đầu tiên là những hợp đồng do các thương nhân người Hà Lan lập nên. Vào thế kỷ thứ 12, các thương nhân Hà Lan thường liên kết với nhau để đầu tư mua đất của những bá tước vùng Champagne nước Pháp và để thực hiện những thương vụ này thì những thương nhân người Hà Lan đã sử dụng một loại chứng từ gọi là “lêttre de faire” (hay letter of the faire), một hợp đồng kỳ hạn quy định ngày giao hàng vào thời gian sau đó. Đó chính là dạng hợp đồng kỳ hạn đầu tiên được sử dụng, và từ đó cho đến nay hợp đồng kỳ hạn vẫn được sử dụng trên thị trường quốc tế đặc biệt là ở các nước mà thị trường tiền tệ chưa đủ hoàn thiện để có thể sử dụng các công cụ phái sinh khác như hợp đồng tương lai và quyền chọn.
“Hợp đồng kỳ hạn là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bán chấp nhận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.” [39]
Hợp đồng kỳ hạn có những đặc điểm sau:
Thời điểm thanh toán: Trong khi phần lớn các giao dịch giao ngay các hàng hóa được trao đổi và việc thanh toán diễn ra ngay lập tức (nếu thanh toán bằng tiền mặt) hoặc sau một vài ngày kể từ ngày giao dịch thì thời hạn kết thúc giao dịch hợp đồng kỳ hạn lại được lùi lại một khoảng thời gian tương đối dài trong tương lai, có thể là một, hai, ba tháng hoặc hơn thế. Các hợp đồng kỳ hạn xác định một ngày thanh toán cụ thể hoặc một thời điểm tiến hành giao dịch trên thực tế. Khi ngày thanh toán tới, người mua trả tiền để mua hàng tại mức giá thỏa thuận ban đầu trong hợp đồng đã ký mà không cần quan tâm đến mức giá hiện tại và người bán hàng chuyển giao hàng với số lượng xác định ban đầu trong hợp đồng đã ký.
Các bên tham gia hợp đồng: trong hợp đồng kỳ hạn thì chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết hợp đồng, số lượng và giá cả hàng hóa do hai bên tự thỏa thuận với nhau dựa theo những dự tính cá nhân. Giá hàng hóa thực tế có thể tăng lên hay giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng và khi đó một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết mức giá thấp hơn (đối với bên bán) hoặc cao hơn (đối với bên mua) so với giá thị trường.
Căn cứ vào các hàng hóa cơ sở, hợp đồng kỳ hạn có thể được phân thành ba loại, đó là: hợp đồng kỳ hạn tỷ giá hối đoái, hợp đồng kỳ hạn lãi suất và hợp đồng kỳ hạn hàng hóa.
Hợp đồng kỳ hạn tỷ giá hối đoái là loại hợp đồng kỳ hạn được áp dụng đối với hầu hết các loại ngoại tệ mạnh với chênh lệch tỷ giá được ấn định kỳ hạn vào các tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 12.
Do tỷ giá hối đoái luôn biến động không ngừng nên nhiều khi ảnh hưởng xấu đến số lượng loại tiền tệ này khi đem trao đổi lấy một số lượng loại tiền tệ khác. Chính vì vậy mà hợp đồng kỳ hạn tỷ giá được dùng để làm hạn chế bớt các ảnh hưởng xấu đó. Theo đó hai bên chủ thể hợp đồng cùng thống nhất về giá cả, số lượng, ngày giờ và địa điểm để trao đổi một lượng loại tiền tệ này lấy một lượng loại tiền tệ khác.
Hợp đồng kỳ hạn lãi suất là loại hợp đồng kỳ hạn trong đó có quy định một mức lãi suất nhất định áp dụng cho một khoản tiền danh nghĩa quy định trong hợp đồng trong một khoảng thời gian được quy định trước. Trong suốt thời gian tồn tại của hợp đồng, mọi giá trị chỉ được chuyển nhượng vào ngày hợp đồng đáo hạn.
Hợp đồng kỳ hạn hàng hóa là loại hợp đồng kỳ hạn liên quan đến những hàng hóa là nông sản như ngũ cốc, bông, cà phê, cao cao hoặc là gia súc và các hàng công nghiệp,…
2.2. Hợp đồng tương lai
Sự phát triển của hợp đồng tương lai hiện đại bắt đầu từ năm 1840 tại Chicago. Khi giao dịch hợp đồng kỳ hạn đã phát triển, thị trường thương mại Chicago đã quyết định rằng việc tiêu chuẩn hóa các hợp đồng kỳ hạn sẽ giúp cho việc thực hiện giao dịch trở nên thuận tiện hơn. Các hợp đồng kỳ hạn được tiêu chuẩn hóa này chính là những hợp đồng tương lai đầu tiên.
Khác với các hợp đồng khác, các hợp đồng tiêu chuẩn hóa này rất thuận tiện cho giao dịch, các bên chỉ cần đàm phán lại giá cả và các hợp đồng này có thể được mua đi bán lại rất nhiều lần trước khi đến ngày đáo hạn.
Tính hữu dụng của các hợp đồng tương lai ngày càng rõ nét hơn và một lượng lớn các giao dịch hợp đồng tương lai đã được thực hiện trong các năm sau đó. Các giao dịch tương lai cũng được tiến hành ở nhiều trung tâm thương mại lớn như New York, Kansas, San Francisco, New Orleans,… tuy nhiên Chicago vẫn là nơi chủ yếu diễn ra các giao dịch này và có ảnh hưởng lớn tới các trung tâm khác trong giao dịch tương lai.
Cũng giống như hợp đồng kỳ hạn, căn cứ vào hàng hóa cơ sở, hợp đồng tương lai phân thành ba loại: Hợp đồng tương lai tài chính, hợp đồng tương lai ngoại tệ và hợp đồng tương lai hàng hóa.
Hợp đồng tương lai tài chính: Trong bảy thập kỷ đầu của thế kỷ 20, các giao dịch tương lai vẫn giữ vị trí quan trọng vốn có của nó, tập trung chủ yếu vào các giao dịch tương lai đối với hàng nông sản.
Nếu xét về bản chất thì hợp đồng tương lai giống hợp đồng kỳ hạn, tuy nhiên hợp đồng tương lai vẫn khác biệt so với hợp đồng kỳ hạn ở một số điểm sau:
Niêm yết trên sở giao dịch: Điểm khác biệt lớn nhất chính là việc tồn tại một sở giao dịch có tổ chức đối với hợp đồng tương lai, trong khi đối với hợp đồng kỳ hạn thì không. Sở giao dịch hợp đồng tương lai cho phép các nhà giao dịch ẩn danh được mua và bán các hợp đồng tương lai mà không phải xác định rõ phía đối tác trong một hợp đồng cụ thể. Sở giao dịch hợp đồng tương lai cụ thể giúp cho các bên mua và bán có thể tìm được nhau trong một thời gian tương đối ngắn. Ngoài ra, Sở giao dịch còn tạo ra tính thanh khoản cao cho thị trường hợp đồng tương lai, giúp cho các đối tác tham gia vào hợp đồng tương lai thực hiện nghĩa vụ của họ có hiệu quả hơn so với khi tham gia vào hợp đồng kỳ hạn.
Tiêu chuẩn hóa: Không giống như các hợp đồng kỳ hạn, các hợp đồng tương lai được tiêu chuẩn hóa. Các hợp đồng kỳ hạn có thể được lập ra cho bất cứ loại hàng hóa nào, với bất kỳ số lượng và chất lượng như thế nào và với thời hạn thanh toán bất kỳ được hai bên tham gia hợp đồng chấp thuận. Trong khi đó, các hợp đồng tương lai niêm yết tại các sở giao dịch quy định một số dạng hàng hóa cụ thể, với một số lượng nhất định đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về chất lượng và tại một thời điểm giao hàng xác định.
Kiểm soát rủi ro thanh toán: Với việc sử dụng các hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch thay vì dùng các hợp đồng kỳ hạn, hai bên tham gia vào hợp đồng tương lai sẽ kiểm soát được rủi ro thanh toán. Trong các giao dịch hợp đồng tương lai cả hai bên mua và bán đều không biết ai là đối tác, đứng ra kết nối trung gian giữa bên mua và bên bán trong tất cả các giao dịch là công ty thanh toán bù trừ. Người bán sẽ bán hợp đồng tương lai cho công ty thanh toán bù trừ và người mua sẽ mua hợp đồng từ công ty thanh toán bù trừ. Việc thực hiện các hợp đồng tương lai sẽ được đảm bảo bằng sự công bằng và uy tín của các sở giao dịch và của công ty thanh toán bù trừ. Đối với các hợp đồng kỳ hạn các khoản lỗ và lãi sẽ chỉ được thanh toán khi hợp đồng đến hạn, còn đối với các hợp đồng tương lai thì những thay đổi về giá trị tài khoản của các bên tham gia hợp đồng được điều chỉnh hàng ngày theo mức giá thị trường và được ghi nhận. Bên cạnh đó, các hợp đồng tương lai còn có một yêu cầu là ký quỹ một khoản tiền nhất định. Như vậy sự kết hợp giữa việc thanh toán hàng ngày và yêu cầu ký quỹ sẽ giúp công ty thanh toán bù trừ phòng ngừa rủi ro thanh toán của các hợp đồng tương lai.
Tính thanh khoản: Sự tồn tại của công ty thanh toán bù trừ và sự thuận lợi của việc giao dịch qua sở giao dịch khiến cho tính thanh khoản của các hợp đồng tương lai cao hơn nhiều so với các hợp đồng kỳ hạn.
2.3. Hợp đồng quyền chọn
Hợp đồng quyền chọn là hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc được bán (nếu là quyền chọn bán) một khối lượng nhất định hàng hóa tại một mức giá xác định và trong một thời gian nhất định.
Việc sử dụng hợp đồng quyền chọn nhằm đảm bảo cho những khoản thu nhập từ tài chính đã xuất hiện từ rất sớm. Hình mẫu hợp đồng quyền chọn đầu tiên đã được sử dụng từ năm 332 trước công nguyên (thế kỷ thứ 12 trước Công nguyên). Theo Aristotle thì Thalus, một nhà triết học, toán học và thiên văn học tài ba, chính là người đầu tiên sáng lập ra hợp đồng quyền chọn. Thalus đã sử dụng khả năng quan sát các vì sao để dự đoán về tình hình thời tiết, điều này giúp ông có thể dự đoán được những vụ mùa ôliu cho năm sắp tới. Nhờ khả năng này ông đã dùng số tiền ít ỏi của mình để mua quyền được sử dụng số ôliu từ khi chúng còn chưa tới vụ thu hoạch. Và khi nhu cầu về ôliu tăng cao, Thalus hoàn toàn có quyền bán ôliu với mức giá cao hơn so với giá mà ông đã bỏ ra để mua vào. Như vậy, ngẫu nhiên Thalus đã tạo ra một hợp đồng quyền chọn đầu tiên.
Hợp đồng quyền chọn phát triển mạnh vào năm 1636 với hàng hóa là hoa tuylip Hà Lan. Loại hoa này được nhập khẩu vào châu Âu và nhanh chóng được ưa chuộng bởi vẻ đẹp của nó. Nhu cầu về loại hoa này tăng cao thì những người trồng hoa tuylip Hà Lan và các thương nhân đã bắt đầu sử dụng hợp đồng quyền chọn đối với nụ hoa tuylip. Do chi phí cho quyền chọn rẻ hơn chi phí giao dịch giao ngay rất nhiều nên nhiều người đã đầu cơ vào giao dịch này kể cả việc phải cầm cố nhà cửa, tài sản. Giá hoa tuylip tiếp tục tăng cao.
Tuy nhiên đến năm 1637 thì bong bóng giá hoa tuylip bị vỡ, giá hoa giảm xuống nhanh chóng và những người đầu cơ đã thi nhau bán hoa tuylip đi, nền kinh tế Hà Lan lâm vào khủng hoảng. Mọi người cho rằng nguyên nhân là do hợp đồng quyền chọn, nhưng nguyên nhân thực tế ở đây chính là do sự tham lam và đầu cơ không suy xét mang lại. Đây là lần đầu tiên người ta có cái nhìn tiêu cực về hợp đồng quyền chọn.
Năm 1872 một nhà kinh tế người Mỹ là Russell Sage đã lần đầu tiên đầu tư vào một hợp đồng quyền chọn mua và hợp đồng quyền chọn bán. Giống như hợp đồng quyền chọn ngày nay, hợp đồng quyền chọn của Russell đem lại cho người nắm giữ quyền được mua hoặc bán một lượng hàng hóa nhất định với một mức giá định trước tại một thời điểm xác định. Những hợp đồng quyền chọn này vẫn chưa được tiêu chuẩn hóa, mỗi hợp đồng có những đặc điểm riêng do vậy rất khó giao dịch giữa các hợp đồng khác loại. Đến năm 1973, với sự ra đời của thị trường giao dịch quyền chọn Chicago thì các hợp đồng quyền chọn được tiêu chuẩn hóa. Ngày nay có thêm nhiều công cụ tài chính để đảm bảo cho giao dịch quyền chọn trở nên đơn giản và an toàn hơn, thêm vào đó là sự ra đời và phát triển hết sức nhanh chóng của internet đã giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu chi phí giao dịch. Các thương nhân ngày nay đã nhận ra rằng hợp đồng quyền chọn không chỉ là một cách rất hữu hiệu để bảo vệ những khoản đầu tư mà đó còn là một công cụ rất mạnh cho phép họ đầu cơ trên thị trường.
Về cơ bản hợp đồng quyền chọn khác với hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai. Một hợp đồng quyền chọn cung cấp cho người giữ nó quyền được làm một số việc. Người nắm giữ quyền chọn không nhất thiết phải thực hiện quyền đó, ngược lại trong hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai thì các bên đối tác phải tự cam kết thực hiện một số hành vi nhất định.
Căn cứ vào bản chất thì hợp đồng quyền chọn được chia làm hai loại: quyền chọn mua và quyền chọn bán.
Hợp đồng quyền chọn mua cho phép người giữ hợp đồng được phép mua hàng hóa cơ sở của hợp đồng với mức giá đã được quy định trong hợp đồng khi hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Với loại quyền chọn này, người mua hợp đồng quyền chọn mua cho rằng giá của hàng hóa cơ sở sẽ tăng lên trong tương lai, nghĩa là giá trong hợp đồng quyền chọn thấp hơn giá thực tế hàng hóa vào thời điểm thực hiện hợp đồng, do đó người mua hợp đồng quyền chọn mua sẽ mua hàng hóa từ người mua hợp đồng quyền chọn bán sau đó bán hàng hóa đó ra thị trường với giá giao ngay và thu lợi nhuận từ khoản chênh lệch này.
2.4. Hợp đồng hoán đổi
Hợp đồng hoán đổi hàng hóa là giao dịch đàm phán trực tiếp giữa hai phía đối tác hay thông qua trung gian, đồng ý trao đổi một loạt những thanh toán được tính trên những cơ sở khác: thanh toán giá cả hàng hóa với mức cố định (fixed) được hoán đổi cho mức giá trôi nổi (floating), thanh toán dựa trên chỉ số giá hàng hóa A thay bằng chỉ số giá hàng hóa B, mua hoặc bán hàng hóa A thay bằng mua hoặc bán hàng hóa B và ngược lại, mua hàng ở mức giá cơ bản giao ngay và bán lại hàng với mức giá kỳ hạn,… Những giao tác hoán đổi đã được xây dựng theo những thể thức rất phong phú và khác biệt. Hai bên đối tác dàn xếp một cuộc trao đổi với những nhu cầu bổ sung và những kỳ hạn thanh toán được đặt định.
Hợp đồng hoán đổi được sử dụng như một công cụ ngừa rủi ro. Thông qua hợp đồng hoán đổi, các bên tham gia có được hàng hóa hoặc mức giá mình mong muốn mà không cần phải thông qua nhiều giao dịch trung gian nên tránh được sự biến động giá và chênh lệch giữa giá bán và giá mua.
Khác với các hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau là sử dụng trong ngắn hạn, hợp đồng hoán đổi sử dụng trong dài hạn. Nhưng ngày càng nhiều, hợp đồng hoán đổi cũng được sử dụng trong ngắn hạn, bổ sung những hạn chế của các dạng hợp đồng với nhau, tạo ra sự cạnh tranh giữa chúng. Các yếu tố cạnh tranh bao gồm sự năng động, chi phí và sự quen thuộc. Hợp đồng hoán đổi hơn hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng giao sau ở yếu tố năng động, nhưng thua ở yếu tố quen thuộc sử dụng. Còn về chi phí, nhìn chung hợp đồng có kỳ hạn và hợp đồng giao sau có ưu thế hơn, nhưng không lớn lắm.
Sử dụng hợp đồng hoán đổi để hạ thấp chi phí vốn thông qua phòng ngừa rủi ro, do tận dụng những ưu thế tương đối, chênh lệch thuế khóa, việc phát triển thị trường mới.
Hoán đổi có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tài trợ và phòng ngừa rủi ro, nó cho phép các công ty đột phá vào thị trường mới và tận dụng những ưu thế của nó để gia tăng kinh doanh mà không phải gia tăng rủi ro kèm theo. Thông qua hoán đổi, có thể chuyển rủi ro ở một thị trường hay ở một loại hàng hóa nào đó sang thị trường khác, ở quốc gia khác mà hoạt động của chúng có liên quan đến thị trường hàng hóa quốc tế.
Cũng tương tự như hợp đồng quyền chọn, theo cách thức giao dịch của hợp đồng hoán đổi, có nhiều dạng giao dịch tương tự phát sinh như dạng giao dịch hoán đổi theo giá trần (caps), theo giá sàn (floors) hoặc vòng đai (collar).
Giao dịch hoán đổi theo giá trần và giá sàn dựa trên những giá cả hàng hóa hoặc những công cụ tài chính khác tương tự những giao dịch hoán đổi, chỉ khác là giá cả hàng hóa được cố định tại một mức tối đa (giá trần) hoặc một mức tối thiểu (giá sàn).
Người bán một giao dịch hoán đổi theo giá trần đồng ý trả người mua giá chênh lệch giữa giá trần và một mức giá thả nổi, tôn trọng một số lượng danh nghĩa được đặc tả trong trao đổi để thanh toán phí.
Người bán một giao dịch hoán đổi theo giá sàn đồng ý trả người mua giá chênh lệch giữa giá sàn và một mức giá thả nổi, tôn trọng một số lượng danh nghĩa được đặc tả trong trao đổi để thanh toán phí.
Một giao dịch hoán đổi theo vòng đai là một giao dịch trong đó người mua một giao dịch hoán đổi theo giá trần đồng thời bán một giao dịch hoán đổi theo giá sàn cho người bán giao dịch theo giá trần, bằng cách ấy chỉ là thanh toán phí của giao dịch hoán đổi theo giá trần.
Tất cả những hình thức giao dịch trên được sử dụng như những công cụ trợ giúp hữu hiệu cho việc phòng chống những rủi ro trong kinh doanh trên thị trường hàng hóa, và cũng có thể coi là những công cụ giúp giảm thiểu chi phí vốn.
3. Điều kiện áp dụng chung đối với các công cụ phái sinh
Trước hết công cụ phái sinh ngoại hối ra đời là để bảo hiểm rủi ro tỷ giá. Tỷ giá biến động theo một biên độ lớn và ngẫu nhiên, phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là điều kiện tiên quyết cho việc sử dụng các công cụ phòng chống rủi ro. Trên thị trường ngoại hối, bên cạnh việc phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ thì thị trường còn ẩn chứa các yếu tố đầu cơ và chênh lệch giá về ngoại tệ. Đây cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm cho tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối biến động một cách khó dự đoán. Chính vì sự không dự đoán trước được những thay đổi của tỷ giá trên thị trường mà các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại luôn có mong muốn bảo hiểm rủi ro để chống lại những tổn thất có thể xảy ra đối với các dòng tiền ngoại tệ của mình.
Theo thông lệ quốc tế, trước khi giao dịch các sản phẩm phái sinh như hoán đổi, quyền chọn hay tương lai, các bên tham gia phải ký kết với nhau bản thỏa thuận chung của Hiệp hội các nhà kinh doanh phái sinh và hoán đổi quốc tế (ISDA). Thoả thuận này bao gồm các điều khoản và điều kiện nhằm quy định phạm vi giao dịch, loại công cụ giao dịch, nghĩa vụ của các bên tham gia; quy định các vấn đề về giải quyết tranh chấp, toà án hay các vấn đề xử lý khi có bên tham gia bị mất khả năng thanh toán…
Thị trường phái sinh và công cụ phái sinh ngoại hối rất đa dạng, phức tạp, đòi hỏi các giao dịch viên là các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao về lĩnh vực ngoại hối, am hiểu các kỹ thuật nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Đặc biệt là cán bộ giao dịch phải có khả năng vận dụng linh hoạt các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá đối với danh mục đầu tư bằng ngoại tệ của bản thân ngân hàng. Ngoài ra họ còn phải có khả năng phát triển (hay bán) các sản phẩm phái sinh tới các doanh nghiệp có hoạt động thương mại quốc tế. Bên cạnh điều kiện về trình độ cán bộ thì vấn đề công nghệ ngân hàng cũng là điều kiện cần thiết để ứng dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối. Vì các công cụ phái sinh nói chung và công cụ phái sinh ngoại hối nói riêng được xây dựng trên cơ sở sử dụng các thuật toán phức tạp để dự đoán về các khả năng biến động của tỷ giá hối đoái trong tương lai. Do đó đòi hỏi các ngân hàng thương mại cần phải có các phần mềm hiện đại để xử lý giao dịch cũng như quản lý và tính phí đối với các công cụ phái sinh.
4. Vai trò – ứng dụng của công cụ phái sinh
Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế: Thị trường công cụ phái sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính, đó là: cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư; sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro; giám sát doanh nghiệp; tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (vận hành hệ thống thanh toán thông suốt).
Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thể mua, bán công cụ phái sinh với hai mục đích: mục đích phòng ngừa rủi ro tài chính; mục đích đầu cơ, tạo lợi nhuận từ ứng dụng công cụ phái sinh, trên cơ sở tạo trạng thái mở về lãi suất, ngoại tệ, hàng hóa, chứng khoán,… Ngoài ra, khi sử dụng phối hợp nhiều công cụ phái sinh với đối tác khác nhau, trên những thị trường khác nhau có thể tạo lợi nhuận trên cơ sở không phải đối mặt với các trạng thái mở, các rủi ro tài chính.
Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính: Các lợi ích thu được khi ứng dụng công cụ phái sinh cũng tương tự doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với vai trò của trung gian tài chính, các tổ chức này có thể tăng nguồn thu từ thu phí với tư cách của người môi giới; đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển các mặt hoạt động khác của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, tư vấn,… cũng tăng cao và hiệu quả hơn.
Để lại một bình luận