Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về giải pháp vượt rào cản của các doanh nghiệp xuất khẩu tôm và cá da trơn.
1. Một số khái niệm liên quan
1.1. Khái niệm rào cản
Thương mại quốc tế là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Sự phát triển của thương mại quốc tế gắn liền với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Thông qua thương mại quốc tế các quốc gia tiến hành trao đổi hàng hóa, dịch vụ để phát huy tối đa những lợi thế cũng như khắc phục các hạn chế của mình (Nguyễn Văn Tuấn và Trần Hòe, 2006).
Trong bối cảnh tự do hóa thương mại, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, khái niệm rào cản không chỉ còn bó hẹp trong phạm vi giới hạn trong các biện pháp của chính phủ sử dụng để hạn chế sự thâm nhập hàng hóa nước ngoài vào thị trường nội địa, chủ yếu bằng biện pháp thuế quan, mà khái niệm rào cản đã được mở rộng với nội dung dùng để chỉ các chính sách, các quy định của một quốc gia, một khu vực hay một khối kinh tế dùng để điều chỉnh các hoạt động thương mại của quốc gia, khu vực, hay trong khối kinh tế (Đào Thu Giang, 2008).
Thuật ngữ “rào cản” hay “hàng rào” thương mại được đề cập chính thức trong Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Agreement of technical Barriers to trade -TBT) của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Tuy nhiên, trong hiệp định này, khái niệm hàng rào cũng không được định danh một cách rõ ràng mà chỉ được thừa nhận như một thoả thuận là: “Không một nước nào có thể bị ngăn cản khi tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất khẩu vào nước mình, hoặc để bảo vệ cuộc sống hay sức khoẻ con người, bảo vệ động thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hoạt động man trá…” (VCCI, 2010).
Khi nghiên cứu vấn đề này, nhiều tác giả sau khi tổng hợp nhiều tài liệu đã đưa ra những ý kiến riêng của mình về khái niệm cho thuật ngữ “rào cản ”. Khái niệm rào cản trong ngôn ngữ thường ngày được hiểu là tất cả những gì gây trở ngại, khó khăn cho hoạt động tiếp cận một đối tượng nào đó. Trong lĩnh vực kinh tế, người ta nói đến các rào cản trong thương mại như thuế quan, các tiêu chuẩn kỹ thuật (còn gọi là hàng rào hay rào cản kỹ thuật), rào cản pháp lý (những quy định của luật pháp hạn chế hoạt động thương mại)… đây là những rào cản do nhà nước đặt ra với mục đích bảo hộ kinh tế trong nước và thường được nhìn nhận như là các bộ phận hay công cụ trong chính sách thương mại quốc tế của một quốc gia (Đào Thu Giang, 2009).
Theo Đinh Văn Thành (2005): Rào cản trong thương mại quốc tế xuất hiện hầu hết các lĩnh vực, với các biện pháp rất đa dạng và tinh vi. Chẳng hạn, có biện pháp tại biên giới và có biện pháp đằng sau biên giới; có biện pháp thuế quan và phi thuế quan; có biện pháp môi trường và biện pháp vệ sinh dịch tễ; có biện pháp tự vệ đặc biệt và biện pháp tự vệ mang tính tạm thời; có biện pháp chung và biện pháp mang tính chuyên ngành; có những biện pháp đối với hàng hóa xuất nhập khẩu và có những biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. Nên rào cản là bất kỳ biện pháp hay hành động nào gây cản trở đối với thương mại quốc tế.
Trong cuốn “Rào cản ở Châu Á và Châu Đại Dương”, Conway (2007) đưa ra định nghĩa có nội dung tương tự “Rào cản là những chính sách hoặc quy định của chính phủ nhằm hạn chế thương mại quốc tế”.
Với các định nghĩa trên đây, tác giả cho rằng rào cản là tất cả các biện pháp thuế quan và phi thuế quan được áp dụng để gây cản trở đến hoạt động thương mại của hàng hoá nước ngoài, nhằm bảo vệ người sản xuất và người tiêu dùng trong nước.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Khái niệm vượt rào cản
Rào cản trong thương mại quốc tế là một thực tế khó tránh khỏi. Vì thế việc các doanh nghiệp nên chuẩn bị tốt, sẵn sàng vượt rào an toàn hoặc ít nhất là giảm thiểu thiệt hại là rất cần thiết (Đinh Văn Thành, 2005).
Ðối với những rào cản thường trực như các yêu cầu kỹ thuật hay các điều kiện về vệ sinh dịch tễ mà mỗi thành viên WTO nhập khẩu tự đặt ra, vượt rào an toàn là biết đầy đủ, thực hiện đúng và thường xuyên các yêu cầu này. Các doanh nghiệp cần tăng cường kiểm soát trong nước (bằng các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả quy trình: Giống – Nuôi – Thu hoạch – Chế biến – Xuất khẩu). Dù rằng việc tuân thủ khá tốn kém và đòi hỏi nhiều công sức của doanh nghiệp, nhưng việc lẩn tránh hay lừa dối có thể còn gây ra những hậu quả lớn hơn nhiều (Đinh Văn Thành, 2005). Ngoài ra còn phải tăng cường đấu tranh quốc tế sử dụng các kênh thương mại cấp chính phủ để bảo hộ.
Ðối với những rào cản mang tính trừng phạt như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp hay biện pháp tự vệ bằng hạn ngạch hoặc cấm nhập khẩu, dù mang tính vụ việc, nhưng lại đòi hỏi một phương thức đối phó thường trực. Nếu phòng tránh khó khăn thì biện pháp để “chống” lại càng cần thiết. Vì biện pháp này sử dụng luật pháp nên để vượt rào cản này cũng phải sử dụng luật pháp bằng cách theo kiện. Trong một vụ kiện thương mại, yếu tố quan trọng đầu tiên là các chứng cứ chứng minh không bán phá giá/không trợ cấp. Do đó, cần phải đưa ra được bằng chứng thuyết phục bằng các giấy tờ hợp lệ, nguồn gốc nguyên liệu rõ ràng, có sức thuyết phục.
Đối với các hành vi bôi nhọ: để vượt qua được loại rào cản này cần chính phủ và doanh nghiệp phải truyền thông mạnh (không phản ứng lại vì nếu phản ứng sẽ có tác động ngược) để truyền thông điệp khách quan, chính thống.
Nói chung, để vượt qua các loại rào cản mà các nước đặt ra thì cần phải có các chiến lược, các giải pháp nhằm hạn chế hay triệt tiêu các rào cản này.
1.3. Khái niệm cá da trơn
Cá da trơn hay Catfish (tên tiếng Anh)là tên chung cho một nhóm cá chỉ tất cả các loài cá không có vảy, gồm cá trê, cá nheo, cá tra, cá ba sa, cá lăng, cá bông lau… là loài thủy sinh vật được nuôi phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Theo hệ thống phân loại ngư loại học, tất cả các loài cá nói trên đều thuộc bộ Cá Nheo (Siluriformes), gồm khoảng 2.500 đến 3.000 loài khác nhau. Các loài cá này được xếp vào các họ khác nhau (Nguyễn Văn Hảo và Võ Văn Bình, 2010). Trong đó, các loài catfish (cá mèo hay cá trê Mỹ) thuộc họ Ictaluridaeđược nuôi nhiều ở Mỹ. Còn loài cá tra(Pangasius hypophthalmus) và cá ba sa (Pangasius bocourti) được nuôi phổ biến ở đồng bằng sông Cửu Long thuộc họ cá da trơn châu Á.
Việt Nam từ lâu đã biết hai loài cá này với tên khoa học là: cá tra: Pangasius hypophthalmus và cá basa: Pangasius bocourtiy đều thuộc loài Pangaiidae (Cacot, 1994). Trong đạo luật farmbill 2008 của Mỹ cũng coi cá tra, cá basa của Việt Nam là cá da trơn. Luận án sử dụng thuật ngữ cá da trơn thay cho cá tra, cá basa của Việt Nam.
2. Vai trò và đặc điểm của các loại rào cản
2.1. Các loại rào cản trong thương mại quốc tế
Rào cản thuế quan
Thuế quan được áp dụng trước hết là nhằm mục đích tăng nguồn thu ngân sách cho chính phủ, sau đó là vì những mục đích khác như ngăn chặn hàng nhập khẩu và bảo vệ hàng trong nước, trả đũa một quốc gia khác, bảo vệ một ngành sản xuất quan trọng hay còn non trẻ của nước mình.
Rào cản phi thuế quan
Rào cản phi thuế quan: Là rào cản không dùng thuế quan mà sử dụng các biện pháp hành chính để phân biệt đối xử chống lại sự thâm nhập của hàng hoá nước ngoài, bảo vệ hàng hoá trong nước. Các nước công nghiệp phát triển thường đưa ra lý do là nhằm bảo vệ sự an toàn và lợi ích của người tiêu dùng, bảo vệ môi trường trong nước đã áp dụng các biện pháp phi thuế quan để giảm thiểu lượng hàng hoá nhập khẩu (Nguyễn Hữu Khải, 2005).
Rào cản phi thuế quan bao gồm nhiều loại khác nhau, có thể được áp dụng biên giới hay nội địa, có thể là biện pháp hành chính và cũng có thể là các biện pháp kỹ thuật, có những biện pháp bắt buộc phải thực hiện và có những biện pháp tự nguyện… Chính vì có sự “giao thoa” nhau giữa các loại do đó việc phân loại chi tiết theo một số tiêu thức thống nhất là rất khó khăn (Nguyễn Hữu Khải, 2005). Sau đây là một số rào cản phi thuế quan chủ yếu:
Các biện pháp cấm: Trong số các biện pháp cấm được sử dụng trong thực tiễn thương mại quốc tế có các biện pháp cấm vận toàn diện, cấm vận từng phần, cấm xuất khẩu hoặc nhập khẩu đối với một số hàng hoá nào đó, cấm phần lớn các doanh nghiệp mà chỉ cho doanh nghiệp được xác định xuất khẩu hoặc nhập khẩu (Nguyễn Văn Thành, 2005).
Hạn ngạch xuất khẩu, nhập khẩu: đó là hạn ngạch về số lượng hoặc trị giá được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu trong một thời kỳ nhất định (thường là 1 năm). Hạn ngạch này có thể do nước nhập khẩu hoặc xuất khẩu tự áp đặt một cách đơn phương nhưng cũng có loại hạn ngạch được áp đặt trên cơ sở tự nguyện của bên thứ hai (VCCI, 2010).
Cấp giấy phép xuất nhập khẩu: có 2 loại giấy phép là giấy phép về quyền hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu và giấy phép xuất nhập khẩu đối với một số hàng hoá hoặc phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu nào đó. Chẳng hạn là giấy phép cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phép mua, bán hàng hoá trên thị trường nội địa, giấy phép nhập khẩu thuốc lá điếu và rượu ngoại, giấy phép kinh doanh tạm nhập tái xuất… Ngoài ra còn có 2 hình thức cấp giấy phép là cấp phép tự động và không tự động. Sử dụng các biện pháp cấp phép không tự động cũng dẫn tới các rào cản về thủ tục hành chính và chi phí tăng (Nguyễn Văn Thành, 2005).
Các rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế (TBT): đó là các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật, các quy định về phòng thí nghiệm và quy định về công nhận hợp chuẩn. Hiện có rất nhiều các quy định và hệ thống tiêu chuẩn được áp dụng trên thế giới mà các nước cho là phù hợp. Song lại có rất ít phòng thí nghiệm và tiêu chuẩn quốc tế mà các nước đều công nhận hợp chuẩn. Do còn có sự khác biệt nhau như vậy nên nó đã trở thành rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế. WTO đã phải thống nhất các nguyên tắc chung và được cam kết tại Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhưng cách thức mà các nước đang áp dụng thường tạo ra sự phân biệt đối xử hay hạn chế vô lý đối với thương mại (Đào Thu Giang, 2008).
Các biện pháp vệ sinh động – thực vật (SPS): theo Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật của WTO thì các biện pháp vệ sinh động – thực vật bao gồm tất cả luật, nghị định, yêu cầu và thủ tục, kể cả các tiêu chí sản phẩm cuối cùng; các quá trình và phương pháp sản xuất, thử nghiệm, thanh tra, chứng nhận và làm thủ tục chấp thuận; xử lý kiểm dịch kể cả yêu cầu gần với việc vận chuyển động vật hay thực vật hay gắn với các nguyên liệu cần thiết cho sự tồn tại của chúng trong khi vận chuyển; thủ tục lấy mẫu và đánh giá nguy cơ; các yêu cầu đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp đến an toàn thực phẩm. Vì định nghĩa của WTO về “mức độ bảo vệ động – thực vật phù hợp” rất chung chung như: “mức bảo vệ được xây dựng nên” lại được chính nước đó “coi là phù hợp” nên các nước công nghiệp phát triển thường đưa ra các mức quá cao khiến cho hàng hoá của các nước đang phát triển khó thâm nhập. Đây là một trong những loại rào cản phổ biến nhất hiện nay và mức độ của nó ngày càng tinh vi (Đào Thu Giang, 2008).
Các quy định về thương mại dịch vụ: như quy định về lập công ty, chi nhánh và văn phòng của nước ngoài tại nước sở tại, quy định về xây dựng và phát triển hệ thống phân phối hàng hoá, quy định về quyền được tiếp cận các dịch vụ công một cách bình đẳng, quy định về thanh toán và kiểm soát ngoại tệ, quy định về quảng cáo và xúc tiến thương mại… đều có thể trở thành các rào cản trong thương mại quốc tế nếu cáo trong thương mại quốc tế nếu các quy định này là không minh bạch và có sự phân biệt đối xử (VCCI, 2010).
Các quy định về sở hữu trí tuệ trước hết là các quy định về xuất xứ hàng hoá. Nếu các quy định về xuất xứ quá chặt chẽ so với hàng sản xuất trong nước để nhằm xác định xem một hàng hoá có phải là hàng nội địa hay không có sự phân biệt đối xử giữa các thành viên thì quy định về xuất xứ đó vi phạm Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO và đương nhiên trở thành rào cản trong thương mại quốc tế. Ngoài ra, các vấn đề về thương hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, bí mật thương mại… cũng có thể trở thành rào cản trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn, trên thị trường thế giới đã có nhiều thương hiệu và nhãn hiệu nổi tiếng của các công ty hay tập đoàn xuyên quốc gia nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới tham gia vào thị trường thế giới sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thâm nhập thị trường thế giới (VCCI, 2010).
Các quy định về bảo vệ môi trường: gồm các quy định về môi trường bên ngoài lãnh thổ biên giới theo Hiệp ước hoặc công ước quốc tế (Ví dụ Công ước về bảo vệ loài rùa biển và việc cấm nhập khẩu tôm do đánh bắt bằng lưới quét..); các quy định trực tiếp về môi trường trong lãnh thổ quốc gia (quy định về tiêu chuẩn môi trường, bao bì và tái chế bao bì, nhãn mác sinh thái…) và các quy định có liên quan trực tiếp đến môi trường nhưng thuộc mục tiêu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (Đào Thu Giang, 2008).
2.2. Đặc điểm của rào cản thương mại
Rào cản trong thương mại được hình thành từ nhiều nguyên nhân khác nhau và có nhiều loại khác nhau, mỗi loại rào cản có những đặc điểm riêng của nó. Cụ thể:
Rào cản thuế quan là loại rào cản sử dụng công cụ thuế làm rào cản. Loại rào cản này rõ ràng, minh bạch, dễ dự đoán và tạo ra nguồn thu cho nhà nước. Tuy nhiên, nó không tạo ra sự tác động bảo vệ nhanh chóng khi kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng nào đó tăng nhanh gây tổn thương lớn, đe dọa sự sự tổn hại cho các ngành sản xuất trong nước. Trường hợp này các hàng rào phi thuế quan với các biện pháp hành chính như cấm nhập khẩu, hạn ngạch hay quota sẽ có tác dụng nhanh chóng. Hiện nay, trong trào lưu tự do hóa thương mại quốc tế, rào cản thuế quan ít được sử dụng hơn rào cản phi thuế quan (Hanson, 2010).
Với loại rào cản hành chính: Công cụ được sử dụng chính làm hàng rào là các quy định có tính chất mệnh lệnh hành chính nhà nước, bao gồm các quy định pháp luật về cấm nhập, cấm xuất, giấy phép, hạn ngạch (quota), hạn chế xuất khẩu tự nguyện, tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc… Có tác động nhanh chóng đến các loại hàng hóa được coi là cần thiết phải điều chỉnh trong quan hệ thương mại.
Với loại hàng rào kỹ thuật: Công cụ được sử dụng làm hàng rào là các, tiêu chuẩn, quy chuẩn và các quy trình kỹ thuật. Hàng rào kỹ thuật thường phục vụ cho nhiều mục tiêu, như vừa phục vụ cho mục tiêu bảo vệ sức khỏe cho người, động vật, thực vật, bảo vệ môi trường vừa tác động gián tiếp đến bảo hộ sản xuất. Ngoài ra với nhóm rào cản kỹ thuật còn có đặc điểm dễ làm sai lệch về định hướng thị trường, dễ bị lợi dụng sử dụng không đúng mục tiêu chính đáng, khó lượng hóa và khó dự báo được, không mang lại nguồn thu cho chính phủ mà còn phát sinh các khoản chi phí, dễ phát sinh tiêu cực. Các biện pháp kỹ thuật này về nguyên tắc là cần thiết và hợp lý nhằm bảo vệ những lợi ích quan trọng như sức khoẻ con người, môi trường, an ninh… Vì vậy, mỗi nước thành viên WTO đều thiết lập và duy trì một hệ thống các biện pháp kỹ thuật riêng đối với hàng hoá của mình và hàng hoá nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, các biện pháp kỹ thuật có thể là những rào cản tiềm ẩn đối với thương mại quốc tế bởi chúng có thể được nước nhập khẩu sử dụng để bảo hộ cho sản xuất trong nước, gây khó khăn cho việc thâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào thị trường nước nhập khẩu (Lê Xuân Trường, 2015).
3. Hệ thống rào cản của Mỹ và EU đối với tôm và cá da trơn
3.1. Hệ thống rào cản của Mỹ đối với tôm và cá da trơn
Các đạo luật quản lý việc sản xuất và nhập khẩu hàng hóa thực phẩm
Mỹ quy định tất cả các loại thực phẩm sản xuất trong nước và nhập khẩu vào thị trường Mỹ đều phải chịu sự điều tiết của các luật sau: Luật Liên bang về Thực phẩm, Dược phẩm, Mỹ phẩm – FDCA (Federal Food, Drug, and CosmeticAct); Luật về Bao bì và Nhãn hàng -FPLA (Fair Packaging and Labeling Act); Một số điều khoản của Luật Dịch vụ Y tế – PHSA (Public Health Service Act), và các quy định của Bộ Nông nghiệp; Đạo luật Nông nghiệp.
Bên cạnh các đạo luật liên bang quy định cho từng loại hàng hóa cụ thể, Mỹ còn có đạo luật liên bang chung cho tất cả các loại hàng hóa – CFR (Code of Federal Regulations). Theo bộ luật liên bang này, thì bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Mỹ phải đảm bảo các tiêu chuẩn của Mỹ.
Ngoài hệ thống các đạo luật liên bang, mỗi bang hoặc khu hành chính đều có hệ thống pháp luật riêng. Tuy nhiên, hệ thống Pháp luật bang và khu hành chính không được trái với Hiến pháp của Liên bang.
Cơ quan quản lý nhà nước về nhập khẩu hàng hóa
Cơ quan quản lý nhà nước của Mỹ về nhập khẩu thực phẩm vào thị trường Mỹ là Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ – FDA (Food and Drug Administration). Cơ quan này thực hiện việc kiểm tra tất cả các loại thực phẩm nhập khẩu thuộc quyền quản lý của mình tại cảng trước khi được cho phép nhập khẩu vào thị trường. Những lô hàng bị phát hiện không phù hợp với những quy định hiện hành có thể bị giữ lại tại cửa khẩu hoặc cho phép tái chế lại cho phù hợp trước khi có quyết định cuối cùng có cho phép nhập khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, mọi công việc tuyển lựa lại, tái chế, hoặc làm lại nhãn hàng phải được tiến hành dưới sự giám sát của nhân viên FDA. Mọi chi phí liên quan đến việc làm trên do người nhập khẩu chịu. Nếu hàng đã được tái chế hoặc làm lại nhãn mà vẫn không đạt yêu cầu, FDA sẽ yêu cầu tái xuất hoặc tiêu huỷ (Võ Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
Việc cho phép tái chế hàng là ưu đãi mà FDA có thể dành cho người nhập khẩu chứ không phải quyền đương nhiên mà các nhà nhập khẩu được hưởng. Vì vậy, nếu người nhập khẩu tiếp tục có các chuyến hàng tương tự không phù hợp sẽ có nguy cơ bị FDA coi là lạm dụng ưu đãi và sẽ không tiếp tục cho phép người nhập khẩu tái chế hàng. Thay vào đó, FDA sẽ yêu cầu người nhập khẩu huỷ hoặc tái xuất lô hàng.
Một số quy định chủ yếu của FDCA và FDA
– Quy định về bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng
FDCA quy định: Thực phẩm kém phẩm chất bị coi là hàng bất hợp pháp không được phép tiêu thụ và nhập khẩu vào Mỹ.
– Quy định về bảo vệ lợi ích kinh tế của người tiêu dùng.
Không được che giấu dưới bất kỳ hình thức nào về những hư hỏng hay kém chất lượng trong thực phẩm. Nhãn hàng thực phẩm không được có các nội dung giả mạo hoặc gây hiểu lầm, hoặc không ghi đầy đủ các thành phần theo quy định của pháp luật. Một loại thực phẩm này không được bán dưới tên một loại thực phẩm khác, không được loại, tách bỏ một phần hoặc toàn bộ một chất được coi là thành phần có giá trị của một loại thực phẩm và không được dùng bất kỳ chất nào khác để thay thế. Tất cả những quy định nói trên của luật là nhằm đảm bảo cho người tiêu dùng có được giá trị đích thực của hàng hoá.
– Quy định về nhãn hàng hóa
FDCA quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải được đăng ký tại Cục Hải quan Mỹ. Năm 1946 Mỹ đã ban hành Đạo luật về nhãn hiệu, theo đạo luật này cấm nhập khẩu những sản phẩm làm nhái theo những thương hiệu đã được đăng ký tại Mỹ, hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền đều bị cấm nhập khẩu vào Mỹ (Trần Thị Minh Nguyệt, 2014).
– Quy định về điều kiện vệ sinh hàng hóa
FDCA quy định thực phẩm phải được chế biến tại các cơ sở đảm bảo vệ sinh, không nhiễm bẩn. Thực phẩm bị nhiễm bẩn được coi là hàng kém phẩm chất, hàng hóa bất hợp pháp cấm được lưu thông trên thị trường bất kể nguồn gốc từ đâu, bất kể nó có hại cho sức khoẻ hay không và các thí nghiệm giám định có phát hiện ra các chất bẩn này hay không. Nếu bị phát hiện nhiễm bẩn khi đến cảng, lô hàng sẽ bị thu giữ. Nếu hàng bị nhiễm bẩn sau khi đã làm thủ tục hải quan và dỡ hàng, lô hàng đó cũng sẽ bị tịch thu hoặc thu hồi như đối với các lô hàng sản xuất trong nước (VASEP, 2013a).
– Quy định về sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản.
FDA cho biết thông thường ở nhiều nước, trong nuôi trồng thuỷ sản trừ những loại kháng sinh bị cấm, các loại kháng sinh khác đều được phép sử dụng. Ngược lại, ở Mỹ trừ những loại kháng sinh được phép sử dụng, tất cả các loại kháng sinh khác đều bị cấm. Hiện nay, Mỹ chỉ cho phép 6 loại kháng sinh được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản. FDA còn chỉ rõ các loại kháng sinh đó do công ty dược phẩm nào cung cấp và quy định cụ thể đối tượng, điều kiện và cách thức sử dụng từng loại. Sáu loại kháng sinh đó là: Chorionic gonadotropin, formalin solution, tricaine methanesulfonate, oxytetracyline, sulfamerazine và hỗn hợp sulfadimethoxine/ormetoprim (FDA, 1998).
FDA cũng công bố một danh mục gồm 18 loại chất không phải là chất kháng sinh hiện đang được sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản, gồm: axit axetic, calcium chloride, calium oxide, carbon dioxide gas, fuller’s earth, tỏi (cả củ), hydrogen peroxide, nước đá, magnesium sulfate, hành (cả củ), papain, potassium chloride, povidoneiodine, sodium bicarbonate, sodium sulfite, thiamine hydrochloride, axit urea và tannic. Ngoài ra, từ năm 1998 đến nay, Mỹ quy định 11 loại chất cấm sử dụng trong nuôi trồng thuỷ sản: Chloramphenicol, Clenbuterol, Diethylstilbestrol (DES), Dimetridazole, Ipronidazole, Nitroimidazoles, Furazolidone, Nitrofurazone, Sulfonamide, Fluoroquinolone, Glycopeptides (FDA, 1998).
– Quy định về phụ gia thực phẩm
FDCA quy định bất kỳ chất nào được sử dụng trong sản xuất, chế tạo, đóng gói, chế biến, xử lý, bao gói, vận chuyển, hoặc lưu giữ thực phẩm, đều có thể được coi là phụ gia thực phẩm. Loại trừ các chất được chuyên gia công nhận là an toàn và các chất được sử dụng phù hợp với phê chuẩn trước đó của FDA, còn lại là các phụ gia không an toàn. Vì vậy các nhà nhập khẩu hoặc xuất khẩu nước ngoài cần phải liên hệ với FDA để biết các thông tin về phụ gia thực phẩm được coi là an toàn (Võ Thị Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
– Quy định về tiêu chuẩn thực phẩm.
FDCA quy định bất cứ hàng hoá nào khi nhập khẩu vào Mỹ phải đảm bảo các tiêu chuẩn như là các sản phẩm nội địa. Cụ thể là phải đảm bảo sản phẩm không có độc tố, an toàn sử dụng và được sản xuất trong điều kiện vệ sinh (Võ Thị Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
– Cảnh báo nhập khẩu và tự động giữ hàng
FDCA quy định, cho phép FDA được áp dụng hình thức “Cảnh báo Nhập khẩu” để cung cấp thông tin và cảnh báo cho các nhân viên của mình ở các cửa khẩu về một loại sản phẩm có nguy cơ gây hại nhằm quản lý chặt chẽ hơn việc nhập khẩu. Trong một số trường hợp, các sản phẩm bị nêu trong Cảnh báo Nhập khẩu có thể tự động bị giữ lại tại cảng đến và không được phép nhập khẩu vào Mỹ cho đến khi người giao hàng hoặc người nhập khẩu chứng minh được sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn của FDA (Võ Thị Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
– Quy định về kiểm tra trước hàng hoá.
Về nguyên tắc, FDA không kiểm tra sản phẩm nhập khẩu trước khi hàng đến cảng đến. Để chủ hàng biết sản phẩm có đảm bảo tiêu chuẩn nhập khẩu theo quy định của Mỹ hay không? và để tránh rủi ro hàng đến cảng nhưng không được FDA cho phép nhập khẩu vào thị trường Mỹ vì không đáp ứng được quy định, chủ hàng có thể thuê một cơ sở kiểm tra chất lượng hàng hoá thông thạo luật lệ của FDA để phân tích sản phẩm trước khi ký hợp đồng (Võ Thị Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
– Quy định về lưu thông hàng hoá trên thị trường
Có thể có hàng thực phẩm nhập khẩu nào đó vi phạm các quy định theo luật pháp của Mỹ lọt được vào thị trường thông qua kiểm tra của FDA (trong thực tế FDA chỉ kiểm tra xác suất chứ không kiểm tra tất cả các lô hàng). Điều này không có nghĩa là lô hàng đó trở thành hợp pháp theo luật của Mỹ. FDA định kỳ kiểm tra các cơ sở sản xuất, phân phối và các mặt hàng thực phẩm đang lưu thông trên thị trường, nếu phát hiện những hàng phi phạm vẫn lưu thông trên thị trường, thì người vi phạm sẽ bị phạt tiền hoặc bị tù.
– Quy định về đăng ký cơ sở sản xuất theo luật chống khủng bố sinh học
Luật An ninh y tế sẵn sàng đối phó với khủng bố sinh học năm 2002 thường gọi tắt là Luật chống khủng bố sinh học. Theo luật này, các cơ sở sản xuất, chế biến, đóng gói hoặc bảo quản thực phẩm dành cho tiêu dùng ở Mỹ phải đăng ký với FDA về các mặt hàng của mình nằm trong kế hoạch cung cấp cho thị trường Mỹ. Các cơ sở nước ngoài phải chỉ định một đại lý liên lạc với nước Mỹ. Sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, FDA sẽ cấp cho cơ sở số đăng ký. Số đăng ký thể hiện chủ cơ sở đã đăng ký với FDA (Võ Thị Thanh Thu và Ngô Thị Ngọc Huyền, 2012).
– Đạo luật Nông nghiệp
Trong dự luật này có điều khoản chuyển chức năng giám sát cá da trơn từ Cơ quan Quản lý dược phẩm và thực phẩm sang Bộ Nông nghiệp. Đạo luật Nông nghiệp thì USDA sẽ tổ chức kiểm tra từ quy trình sản xuất đến việc đóng gói, xuất khẩu, đặc biệt quan tâm đến việc kiểm tra chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm tại các cơ sở sản xuất. Nếu bảo đảm tiêu chuẩn quy định tương đồng với các tiêu chuẩn của mặt hàng này sản xuất tại Mỹ thì phía Việt Nam mới được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn và được phép xuất khẩu vào thị trường Mỹ.
– Pháp luật về chống bán phá giá
Chống bán phá giá là một biện pháp được WTO thừa nhận và cho phép sử dụng nhằm ngăn chặn những thiệt hại do hành vi thương mại không chính đáng gây ra. Tuy nhiên, Mỹ đã và đang sử dụng biện pháp này như một công cụ hữu hiệu để ngăn cản hàng hóa của nước ngoài tràn vào thị trường Mỹ cũng như bảo vệ các nhà sản xuất nội địa. Pháp luật về chống bán phá giá của Mỹ quy định về các trình tự, thủ tục, nội dung của quá trình điều tra và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tại Mỹ và các cơ quan có thẩm quyền trong các hoạt động này.
3.2. Hệ thống rào cản của EU đối với tôm và cá da trơn
Các quy định đối với sức khỏe và an toàn thực phẩm
Quy định của EU về dư lượng
EU quy định các biện pháp giám sát một số hoá chất và dư lượng của chúng trong động vật sống và các sản phẩm của động vật. Hiện EU đang thực hiện chính sách “dư lượng = 0” đối với các chất kháng sinh bị cấm hoàn toàn. EU ngày càng hạ thấp ngưỡng phát hiện dư lượng chất kháng sinh dựa trên cơ sở hiện đại hoá các thiết bị kiểm tra. Trong vòng 3 năm, EU đã hai lần hạ ngưỡng phát hiện dư lượng đối với Chloramphenicol (năm 1999 và 2001). Hàng thuỷ sản xuất khẩu vào EU sẽ chịu sự kiểm tra cả về vấn đề vi sinh và hoá học (Nguyễn Tử Cương, 2009).
Quy định của EU về bao gói, ghi nhãn sản phẩm
Yêu cầu về bao bì: Bao bì phải được sản xuất sao cho thể tích và khối lượng được giới hạn đến mức tối thiểu và phải được thiết kế, sản xuất, buôn bán theo cách thức cho phép tái sử dụng hay thu hồi nhằm duy trì mức an toàn và hạn chế mức tối thiểu tác động tới môi trường. Bao bì phải được sản xuất theo cách có thể hạn chế đối đa sự có mặt của nguyên liệu và chất độc hại do sự phát xạ, tàn tro khi đốt cháy.
Yêu cầu về đóng gói: Đóng gói phải phù hợp với việc chuyên chở. Bên cạnh chuyên chở, môi trường cũng là một vấn đề trong đóng gói. Luật bảo vệ môi trường quy định về độ độc hại có đưa ra một số yêu cầu liên quan đến vật liệu đóng gói. Những túi nilong trong thùng carton phải “dùng được cho thực phẩm”. Đối với tôm và cá da trơn đóng hộp, cũng có quy định về lượng thuỷ ngân và camidi có trong sản phẩm. Uỷ ban châu Âu ban hành một danh sách các loại nhựa “chấp nhận được”.
Yêu cầu về ký mã hiệu và dán nhãn sản phẩm: Nhãn mác trên bao bì phải có đầy đủ thông tin: Tên thương mại; Xuất xứ; Cách chế biến; Cách bảo quản; Kích cỡ; Thành phần; Khối lượng; Hạn sử dụng; Khuyến cáo khi sử dụng sản phẩm; Nhà sản xuất; Nhà xuất khẩu; Nhà nhập khẩu và mã số của công ty xuất khẩu. Nhãn mác trên các hộp phải ghi bằng ngôn ngữ tại thị trường tiêu thụ và phải cho người đọc hiểu các thông tin trên. Với ý thức về môi trường ngày càng tăng, nên việc sử dụng các nhãn hiệu “bảo vệ môi trường” cũng được khuyến khích (Viện chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
Các quy định trong tiêu chuẩn về thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu trong quá trình sản xuất, thu hoạch và xử lý sau thu hoạch -Global GAP (Global Good Agricultural Pratice)
Để thực hiện phương pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ, bao gồm cả nuôi trồng thuỷ sản, EU và Mỹ áp dụng quy trình thực hành nông nghiệp tốt – GAP. GAP được áp dụng đối với các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. GAP bao gồm các tiêu chuẩn về quản lý đất đai, sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, hoá chất, các chế phẩm sinh học, bảo vệ mùa màng, thu hoạch và sau thu hoạch, sức khoẻ và an toàn cho người lao động (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
– Quy định của hệ thống Phân tích mối nguy và điểm kiểm soát tới hạn – HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Points- HACCP)
Đối với các tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, các doanh nghiệp chế biến thực phẩm phải tuân thủ các tiêu chuẩn vệ sinh chặt chẽ bằng việc áp dụng HACCP Tất cả các nhà sản xuất, chế biến thực phẩm muốn xuất khẩu hàng hoá sang EU đều chịu sự bắt buộc, mang tính pháp lý, phải áp dụng quy trình sản xuất theo hệ thống HACCP ngay từ đầu hoặc phải triển khai áp dụng hệ thống tiêu chuẩn này. Hệ thống HACCP được áp dụng đối với các công ty tham gia chế biến, xử lý, đóng gói, vận chuyển, phân phối hoặc kinh doanh thực phẩm. Hệ thống này được hoạt động trên các nguyên tắc: Phân tích các nguy cơ độchại; Xác định các điểm kiểm soát quan trọng trong quá trình sản xuất; Thiết lập các biện pháp phòng ngừa với các giới hạn quan trọng cho mỗi điểm kiểm soát; Xây dựng trình tự theo dõi các điểm kiểm soát quan trọng; Ban hành thủ tục thẩm định; Văn bản hoá các trình tự, thủ tục và kết quả kiểm nghiệm. Công việc này phải được tính đến các vấn đề như côn trùng, vi sinh, chất độc hoặc rủi ro có thể nhìn thấy bằng mắt thường (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
Các quy định về tiêu chuẩn của EU trong quản lý chất lượng
EU quy định tất cả các sản phẩm nhập khẩu vào thị trường EU phải đạt được tiêu chuẩn của bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 là Bộ tiêu chuẩn quốc tế được xây dựng nhằm trợ giúp các tổ chức, thuộc mọi loại hình và quy mô trong việc xây dựng, áp dụng và vận hành các hệ thống quản lý chất lượngcó hiệu lực. ISO 9000 được duy trì bởi tổ chức Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc ISO (International Standardisation Organization).
Quy định của EU về bảo vệ môi trường và nguồn lợi
– Hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường – ISO 14000
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường, được xây dựng trên cơ sở thoả thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được để thiết lập nên hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện môi trường một cách liên tục tại các cơ sở. ISO 14001 là tài liệu quy định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý của bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Nó bao gồm các yếu tố mà tổ chức cơ sở muốn đăng ký hoặc chứng nhận phù hợp với các tiêu chuẩn phải thoả mãn. Đây là tài liệu về yêu cầu đối với các hệ thống quản lý (Viện chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
Hệ thống kiểm tra và quản lý sinh thái (Ecological Management and Audit Scheme- EMAS)
Mục tiêu của hệ thống kiểm tra và quản lý sinh thái là đẩy mạnh sự cải thiện, tiếp tục việc thực hiện tiêu chuẩn môi trường của các tổ chức châu Âu, cùng với việc cung cấp thông tin cho cộng đồng và các đối tác quan tâm. EMAS là công cụ quản lý đối với các doanh nghiệp, các tổ chức để đánh giá, báo cáo và cải thiện việc thực hiện bảo vệ môi trường của họ.
Quy định của EU về phòng ngừa, ngăn chặn và xoá bỏ các hoạt động khai thác thuỷ sản bất hợp pháp, không báo cáo (Illegal Unreported and Unregulated fishing – IUU).
Theo quy định IUU năm 2008 mỗi lô hàng tôm và cá da trơn xuất khẩu sang EU nhất thiết phải có bản cam kết của nhà máy chế biến về nguồn gốc sản phẩm, hoặc giấy chứng nhận khai thác. Các giấy tờ này phải được cơ quan có thẩm quyền nước nhập khẩu xét duyệt trước khi hàng về đến cửa khẩu nước đó. IUU cũng nêu rõ, EU cấm nhập khẩu các sản phẩm thuỷ sản, hải sản có nguồn gốc khai thác, đánh bắt bất hợp pháp.
– Các quy định về việc đăng ký, đánh giá và cấp phép sử dụng hóa chất – REACH (Registration, Evaluation, Authorization and Chemicals)
Luật số 1907 về đăng ký, đánh giá, cấp phép hoá chất (thường được gọi là Luật Hoá chất mới của EU) yêu cầu mọi hóa chất được dùng với khối lượng lớn hoặc được cho là có khả năng ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và môi trường đều phải đăng ký với cơ quan quản lý hóa chất châu Âu – ECHA (European Chemical Agency-ECHA). Quy định này nhằm đảm bảo an toàn sức khỏe cho con người và môi trường ở mức cao. Để đáp ứng được yêu cầu này, các doanh nghiệp có hàng hóa xuất khẩu vào EU cần phải nâng cấp hệ thống quản lý đối với các chất hóa học trong sản xuất. Theo quy định này kể từ tháng 12/2008, những mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường EU có chứa hoá chất buộc phải đăng ký với cơ quan quản lý hóa chất châu Âu – ECHA. EU đưa ra danh mục khoảng 900 chất được xếp loại theo mức độ độc hại gây ảnh hưởng đến người tiêu dùng và môi trường và tỷ lệ cho phép tối đa các loại hóa chất có trong từng sản phẩm xuất khẩu vào thị trường EU (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
– Quy định của EU về trách nhiệm xã hội
Uỷ ban Châu Âu (EC) sẽ đình chỉ hoạt động của các doanh nghiệp nội địa ngay khi phát hiện ra những doanh nghiệp này sử dụng lao động cưỡng bức và cấm nhập khẩu các sản phẩm mà trong quá trình sản xuất có sử dụng lao động bất hợp pháp như đã được xác định trong Hiệp ước Genevo ngày 25/9/1926 và 07/09/1956 và các Hiệp ước quốc tế về lao động khác.
Có thể thấy EU áp dụng rất đa dạng các loại rào cản để kiểm soát luồng hàng hoá nhập khẩu, bảo vệ người tiêu dùng nội địa cũng như bảo vệ môi trường. Hệ thống rào cản này hết sức phức tạp đòi hỏi các nước xuất khẩu thuỷ sản sang EU phải đáp ứng đầy đủ các quy định mới có thể xuất hàng vào EU (Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, 2010).
Trả lời