Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn các nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài tại tòa án.
Cho dù tranh chấp kinh doanh thương mại (KDTM) có yếu tố nước ngoài (YTNN) là loại hình tranh chấp liên quan đến hoạt động KDTM của các thương nhân trong đó có sự gắn kết với YTNN, tuy nhiên, xuất phát chủ quyền quốc gia trong tư pháp quốc tế (TPQT), khi giải quyết tranh chấp (GQTC) KDTM có yếu tố nước ngoài, tòa án Việt Nam phải tuân theo các nguyên tắc nhất định, trong đó tiêu biểu là các nguyên tắc dưới đây.
1. Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia
Chủ quyền quốc gia là thuộc tính chính trị – pháp lý gắn liền với mỗi quốc gia độc lập trong chính sách đối ngoại và tối cao trong chính sách đối nội trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình, bao gồm quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của quốc gia mình thông quá các quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội mà không có một quốc gia nào có thể can thiệp. Lợi ích quốc gia là mục tiêu cơ bản và nhân tố quyết định cuối cùng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Có thể nói, lợi ích quốc gia là vấn đề có ý nghĩa “sống còn” với mỗi quốc gia, là yếu tố hàng đầu cần phải được cân nhắc trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại của một quốc gia. Việc xác định đúng đắn lợi ích quốc gia và kết hợp hài hòa giữa lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế, với lợi ích chính đáng của các đối tác, từ đó tìm mẫu số chung để hợp tác tốt nhất, đưa đất nước hội nhập sâu, toàn diện vào khu vực và thế giới được cho là điều cần thiết cho mỗi một quốc gia độc lập trong quá trình hội nhập quốc tế.
Chủ quyền quốc gia nhấn mạnh quyền tài phán của TA VN đối với mọi tranh chấp phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, kể cả các tranh chấp KDTM có YTNN. Chủ quyền quốc gia thông qua việc thực hiện quyền tài phán và lợi ích quốc gia thông qua TA là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của TPQT VN. Chủ quyền quốc gia nói lên quyền tự quyết của VN khi tham gia vào các quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ TPQT, trong đó có việc GQTC KDTM có YTNN nói riêng. Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền quốc gia cũng tức là bảo vệ lợi ích của quốc gia. Vì vậy, TAVN với vai trò là bộ máy tư pháp của Nhà nước, khi GQTC KDTM có YTNN phải tuân thủ nguyên tắc này. Cụ thể hơn, trong hoạt động GQTC KDTM có YTNN tại TAVN thuộc phạm vi nghiên cứu của Luận án, nội dung nguyên tắc này thể hiện ở hai khía cạnh sau đây:
Đối với việc xác định thẩm quyền của TA đối với các tranh chấp KDTM có YTNN, việc bảo vệ chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia thể hiện thông qua hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật và hệ thống cơ quan tư pháp độc lập, xác định thẩm quyền chung và thẩm quyền riêng biệt của TA quốc gia đối với các tranh chấp, tham gia xây dựng, ký kết, gia nhập hoặc từ bỏ các ĐƯQT, từ chối áp dụng pháp luật nước ngoài … Trong đó, vấn đề xác định thẩm chung và thẩm quyền riêng biệt của TA quốc gia đối với các tranh chấp nhằm đảm bảo việc thực thi quyền tài phán của quốc gia cần phải được cân nhắc trong mối tương quan với nguyên tắc tôn trọng quyền tự thỏa thuận và quyền bình đẳng của các bên tranh chấp. Bởi lẽ, khi quy định những căn cứ xác định thẩm quyền của TA quốc gia đối với các tranh chấp trong TPQT nói chung, pháp luật các nước đều cố gắng mở rộng khả năng để tòa án quốc gia mình có thẩm quyền giải quyết, đặc biệt là thẩm quyền riêng biệt 96. Điều này có khả năng dẫn đến việc không đảm bảo sự cân bằng với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt, quyền được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp, gây nên những khó khăn cho quá trình tham gia vào hoạt động tố tụng của các bên, cũng như khả năng để thực thi phán quyết …
Đối với việc xác định pháp luật áp dụng cho hoạt động giải quyết tranh chấp KDTM có YTNN, việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia thể hiện thông qua hoạt động xây dựng các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh vấn đề pháp luật áp dụng cho các tranh chấp KDTM có YTNN, đặc biệt là các quy phạm xung đột một chiều hướng đến việc áp dụng pháp luật của chính quốc gia ban hành quy phạm xung đột đó và các quy phạm liên quan đến vấn đề bảo lưu trật tự công cộng nhằm hướng đến việc bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và của pháp luật quốc gia có chủ quyền. Việc thực hiện hoạt động bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia này có khả năng bị lạm dụng nhằm loại trừ khả năng áp dụng pháp luật nước ngoài, hướng đến việc áp dụng pháp luật trong nước để giải quyết tranh chấp.
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, cho dù mở cửa đến đâu và như thế nào thì TA VN cũng phải luôn luôn tuân thủ nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Vấn đề đặt ra là mối quan hệ giữa việc tôn trọng nguyên tắc này với nguyên tắc mở cửa, tự do hóa TM sẽ được giải quyết như thế nào trong hệ thống pháp luật VN.
2. Nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Nguyên tắc này được thể hiện thông qua quy định về nghĩa vụ tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (tại Điều 26) và mối tương quan giữa pháp luật trong nước với việc tôn trọng các ĐƯQT tại Điều 27 Công ước Viên về Luật ĐƯQT 196999 . Theo đó, mỗi quốc gia thành viên của các ĐƯQT nói chung và các ĐƯQT quy định về xác định thẩm quyền của TA và pháp luật áp dụng cho việc GQTC KDTM có YTNN nói riêng phải có nghĩa vụ thực hiện một cách tận tâm, thiện chí và đầy đủ các cam kết quốc tế của mình. Các quốc gia thành viên không được viện dẫn các quy định của pháp luật trong nước như là nguyên nhân để từ chối thực hiện nghĩa vụ của mình. Nội dung này cũng được thể hiện rõ tại khoản 4 Điều 3 và khoản 1 Điều 6 của Luật ĐƯQT 2016 của Việt Nam. Quy định cụ thể hơn về vấn đề này được thể hiện tại khoản 3 Điều 2 BLTTDS 2015 “trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”; Điều 665 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng; Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng”; khoản 1 Điều 5 LTM 2005 quy định “Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó”…
Các ĐƯQT mà VN là thành viên có điều chỉnh về vấn đề xác định thẩm quyền của TA và pháp luật áp dụng cho việc GQTC KDTM có YTNN chủ yếu thể hiện trong các Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, thương mại giữa Việt Nam và các nước được ký kết trước năm 2008101. Các Hiệp định thương mại, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư… giữa Việt Nam và các nước chủ yếu đề cập đến các vấn đề xác định hình thức giải quyết tranh chấp, lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp và pháp luật áp dụng.
3. Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận, quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp
Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tranh chấp là nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và tố tụng dân sự tại các nước, trong đó có VN nhằm đề cao quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt của các bên trong việc giải quyết các quan hệ dân sự và vụ việc dân sự. Trong hoạt động GQTC KDTM có YTNN tại TA VN cũng như của EU và một số nước nghiên cứu, nguyên tắc này lại càng được đề cao vì tính “thương mại” và “kinh doanh” của các tranh chấp. Nguyên tắc này cho phép các bên được quyền tự thỏa thuận về thẩm quyền của TA có thẩm quyền cũng như pháp luật áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp đó. Trong pháp luật VN, nội dung nguyên tắc này được thể hiện rõ trong các quy định có liên quan đến vấn đề thỏa thuận lựa chọn tòa án tại khoản 1 Điều 470 BLTTDS 2015; khoản 2 Điều 5, khoản 1 Điều 339 BLHH 2015; khoản 4 Điều 14 LĐT 2014 hoặc các quy định có liên quan đến vấn đề tôn trọng quyền tự do lựa chọn pháp luật áp dụng tại Khoản 1 Điều 683 BLDS 2015; khoản 2 Điều 5 LTM 2005; khoản 2 Điều 5 BLHH 2015…
Tuy nhiên, việc tôn trọng nguyên tắc tự thỏa thuận, quyền và lợi ích chính đáng của các bên phải đặt trong sự cân bằng với nguyên tắc bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Do đó, pháp luật VN cũng như EU và một số nước nghiên cứu đều có quy định liên quan đến việc giới hạn quyền tự thỏa thuận này nhằm cân bằng với việc thực thi quyền tài phán và chủ quyền của quốc gia. Nội dung của sự giới hạn tùy thuộc vào từng loại tranh chấp cụ thể. Ví dụ, có quốc gia chấp nhận quyền thỏa thuận lựa chọn TA cho các tranh chấp ngoài HĐ ví dụ như EU, Bỉ… song một số quốc gia lại không chấp nhận quyền thỏa thuận này, ví dụ như Trung Quốc.
Để lại một bình luận