Trong bài viết này, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung lý luận cơ bản về marketing lãnh thổ. Bao gồm: Khái niệm, chủ thể thực hiện, khách hàng trong marketing lãnh thổ.

1. Khái niệm marketing lãnh thổ
Ứng dụng marketing vào thu hút đầu tư phát triển ở địa phương là cách tiếp cận hiệu quả trong điều kiện kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay. Các địa phương cần phải biết tạo ra những sản phẩm, những dịch vụ có giá trị nhằm tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng mục tiêu.
Trên bình diện quốc gia và quốc tế, việc ứng dụng marketing cũng nhằm thực hiện mục tiêu thu hút khách hàng nhằm phát triển quốc gia và vùng lãnh thổ. Việc ứng dụng ñược thực hiện bằng cách tạo ra những sản phẩm và dịch vụ, trên phạm vi rộng lớn hơn phạm vi một địa phương, và sử dụng các nỗ lực marketing nhằm thu hút sự chú ý tiêu dùng của khách hàng mục tiêu đã được lựa chọn.
Theo Philip Kotler, thuật ngữ “lãnh thổ” trong khái niệm “marketing lãnh thổ” mang tính chất bao trùm, rộng lớn hơn cả. Nó được sử dụng để thay thế lẫn nhau trong các khái niệm marketing thành thị, marketing địa phương, marketing vùng, marketing bang hay marketing quốc gia [45:dịch từ tiếng Anh].
Dưới đây là một số khái niệm về marketing lãnh thổ đã được công nhận:
Marketing lãnh thổ là một quá trình, trong đó, các hoạt động của vùng lãnh thổ hướng đến việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng mục tiêu trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội và hiệu quả kinh tế, phù hợp với mục tiêu đã đề ra. [45:dịch từ tiếng Anh].
Khái niệm cho thấy, marketing lãnh thổ là một quá trình được thực hiện bởi các vùng, lãnh thổ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng mục tiêu. Hơn thế nữa, khái niệm chỉ ra được mục đích của marketing lãnh thổ không chỉ nhằm đạt được các lợi ích về kinh tế mà còn nhằm đảm bảo lợi ích xã hội.
Hoặc marketing lãnh thổ là một thuật ngữ chỉ tập hợp các chương trình hành động hỗ trợ được địa phương thực hiện nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của địa phương và phát triển kinh tế. [9;tr.5].
Khái niệm trên đã diễn đạt được marketing lãnh thổ là tập hợp các chương trình hành động mà địa phương thực hiện hướng đến việc cải thiện khả năng cạnh tranh của địa phương và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, khái niệm trên chưa thể hiện đối tượng tác động chính mà hoạt động marketing lãnh thổ của chủ thể thực hiện cần hướng tới, đó chính là khách hàng.
Từ những khái niệm đã nêu trên, kết hợp với những đúc rút từ thực tiễn nghiên cứu, theo tác giả, khái niệm về marketing lãnh thổ có thể được hiểu như sau:
Marketing lãnh thổ là những hành động có chủ đích của chính quyền và con người trên một lãnh thổ nhất định nhằm hiểu biết nhu cầu và mong muốn của khách hàng, từ đó tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó một cách ưu thế hơn so với vùng lãnh thổ khác.
Khái niệm đã đề cập đến chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ, khách hàng trong marketing lãnh thổ. Những vấn đề này sẽ ñược trình bày chi tiết trong các nội dung tiếp theo của luận án.
Từ những khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy rằng, bản chất của marketing lãnh thổ chính là các hoạt động của chủ thể lãnh thổ tác động đến đối tượng khách hàng mục tiêu của họ. Đó chính là những chương trình, những công cụ marketing mà mỗi lãnh thổ sử dụng nhằm chủ động tạo ra những sản phẩm lãnh thổ có giá trị để thu hút sự chú ý và tiêu dùng của khách hàng.
Quan điểm chủ đạo của marketing lãnh thổ là bằng mọi quyết sách của mình để tìm kiếm giải pháp tốt nhất đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt đối tượng nhà đầu tư mục tiêu, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội của vùng lãnh thổ đó.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
2. Chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ
Chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ là các tác nhân tham gia vào hoạt động marketing của vùng lãnh thổ đó. Theo quan điểm của marketing hiện đại, trách nhiệm thực hiện marketing trong doanh nghiệp không phải chỉ thuộc về riêng bộ phận marketing mà còn là trách nhiệm của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp. Vì vậy, việc thực hiện marketing lãnh thổ cũng cần phải được tất cả mọi thành phần thuộc vùng lãnh thổ đó thực hiện, bao gồm từ cấp chính quyền Trung ương đến người dân địa phương.
Việc phân loại chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ là cần thiết nhằm nắm bắt được vai trò quan trọng của từng chủ thể. Nếu xét trên phạm vi quốc gia, chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ được phân chia theo hai cấp chủ yếu, bao gồm: Cấp Trung ương và cấp địa phương, được phân loại theo từng nhóm với vai trò khác nhau, từ quan trọng đến ít quan trọng hơn. Nếu xét trên phạm vi quốc tế, chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ cũng được phân chia theo hai cấp chủ yếu, bao gồm: Cấp Quốc tế và cấp Quốc gia. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, nghiên cứu sinh chỉ trình bày những nội dung cơ bản liên quan đến chủ thể thực hiện marketing lãnh thổ ở cấp địa phương trong phạm vi một quốc gia.
2.1. Chính quyền và các cơ quan, ban, ngành chủ quản
Đây là nhóm có chức năng quản lý hành chính về khu vực địa phương nào đó. Các khu vực này có thể là phạm vi quốc tế, như: châu Âu, châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, Đông Nam Á, v.v… phạm vi quốc gia, như: Hoa Kỳ, Trung Quốc, Việt Nam, v.v.. hoặc phạm vi địa phương trong một quốc gia, như: tỉnh, thành phố, quận, huyện, phường, xã. Tương ứng với các khu vực đó là các tổ chức chính quyền thực hiện chức năng quản lý và điều hành các khu vực đó, như: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, Liên minh châu Âu EU, v.v.. trên phạm vi quốc tế; Chính phủ và các Bộ, ngành trên phạm vi quốc gia; và Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân trên phạm vi địa phương trong một quốc gia.
Các chủ thể thuộc nhóm này giữ vai trò định hướng chiến lược và có tác động rất mạnh mẽ không chỉ đến các hoạt động marketing lãnh thổ và còn ñến tất cả các hoạt động nhằm phát triển khu vực. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, vai trò của nhóm chủ thể này rất quan trọng và quyết định sự phát triển tương lai của khu vực.
2.2. Cộng đồng doanh nghiệp
Nhóm chủ thể thứ hai đóng vai trò khá quan trọng, đó là cộng đồng các doanh nghiệp đóng trên địa bàn đó. Họ bao gồm các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế trong nước (DNNN và DNTN) và doanh nghiệp FDI. Nhóm chủ thể này là mặt biểu hiện, thể hiện sự phát triển và sức mạnh của nền kinh tế địa phương. Họ giữ vai trò như tác nhân thực hiện chức năng quảng bá hình ảnh, tính hấp dẫn của địa phương đến các đối tượng khách hàng.
Cộng đồng doanh nghiệp sẽ giữ vai trò gián tiếp thực hiện các hoạt động marketing lãnh thổ theo kế hoạch mà nhóm chủ thể chịu trách nhiệm chính ñã soạn thảo và triển khai thực hiện.
2.3. Công chúng
Nhóm chủ thể thứ ba, bao gồm: Các tổ chức đoàn thể, các Hiệp hội xã hội và cộng đồng dân cư. Nhóm không trực tiếp thực hiện việc soạn thảo và thực hiện các chương trình marketing lãnh thổ nhưng họ lại gián tiếp hỗ trợ ñể các hoạt động marketing ñó vận hành dễ dàng, thuận lợi hơn.
Các tổ chức đoàn thể như: Đảng cộng sản, Đoàn thanh niên, Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ,…; các Hiệp hội xã hội như: hiệp hội doanh nghiệp, hội bảo vệ người tiêu dùng, hội bảo vệ môi trường, tổ chức hòa bình xanh, hội bảo vệ động vật hoang dã, …; và cộng đồng dân cư, bao gồm: người dân địa phương nói chung và người dân sống xung quanh khu vực có sự hiện diện của nhà đầu tư. Tất cả nhóm công chúng này hiện diện và thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình tại địa bàn cư trú và tất yếu sẽ có những tác động không nhỏ đến các đối tượng khách hàng.
Nhóm công chúng sẽ đóng vai trò gián tiếp thực hiện các hoạt động marketing lãnh thổ. Bên cạnh đó, vai trò hỗ trợ như chăm sóc khách hàng cũng được thực hiện thông qua những hành động của nhóm này.
3. Khách hàng trong marketing lãnh thổ
Philip Kotler chia khách hàng trong marketing lãnh thổ ra làm bốn nhóm chính, bao gồm: du khách; cư dân và nhân công; doanh nghiệp và ngành công nghiệp; và xuất khẩu.
3.1. Du khách
Khách hàng thuộc nhóm này được chia thành hai nhóm chính: khách thương nhân và khách du lịch. Đối với các nhà marketing khu vực, điều quan trọng là phải đáp ứng hai nhóm khách hàng riêng biệt này. Các du khách thương nhân tập hợp tại một khu vực ñể tham dự cuộc họp hay hội nghị kinh doanh, du lịch ở một nơi nào đó, hoặc bán và mua một mặt hàng nào đó. Các khách hàng du lịch bao gồm những du khách muốn tham quan một nơi nào đó, những khách du lịch muốn thăm gia đình, bạn bè.[6:tr.6 – marketing asian places]
Việt Nam là đạt được đa văn hóa, với nhiều danh lam thắng cảnh và cụm di tích lịch sử, rất thuận lợi cho việc thu hút nhóm khách hàng là du khách. Bên cạnh ñó, Việt Nam cũng ñang trở thành ñiểm ñến của các thương nhân tham dự những hội nghị, diễn ñàn quốc tế. Vì vậy, Việt Nam nói chung và các địa phương nói riêng, hoàn toàn có thể tập trung vào thu hút nhóm du khách nhằm phát triển ngành du lịch tại địa phương của mình.
3.2. Cư dân và nhân công
Nhóm đối tượng khách hàng thứ hai là cư dân và nhân công. Vào những năm 80 của thế kỷ trước, nền kinh tế các nước châu Á đang “hóa rồng”, nhiều quốc gia theo đuổi chiến lược thu hút các nhân công có tay nghề thấp từ các quốc gia nghèo trong khu vực. Singapore, Hồng Kông và Đài Loan rất năng nổ tuyển nhân công từ Philippin, Indonesia, Srilanka và Thái Lan. Ngày nay, mọi quyền ưu tiên đã bị thay đổi. Trong suốt những năm châu Á kỳ diệu dẫn đầu, cơ sở hạ tầng giáo dục phần lớn đã bị lãng quên, cho dù khái niệm phổ biến rằng giáo dục được đánh giá cao ở châu Á. Hiện tại, châu Á đang thiếu hụt nhân công có kiến thức và chiến lược marketing đang nhấn mạnh nhu cầu thu hút các nhân công có tay nghề và chuyên môn cao. Việc tìm kiếm các kỹ sư, nhà nghiên cứu, người biết nhiều ngoại ngữ, nhà phát minh, người có thâm niên, khỏe mạnh, giàu có và cư dân trả thuế ổn định là một vấn đề quan trọng. [6: tr.9 – marketing asian places]
Đối tượng khách hàng này thường tồn tại dưới dạng các hộ gia đình. Philip Kotler chia các hộ gia đình này thành các nhóm khách hàng mục tiêu nhỏ tạo sự thuận lợi cho các nhà quảng bá địa phương tiếp cận họ. Mỗi nhóm có những đặc điểm và nhu cầu đặc biệt. Chẳng hạn như một số cộng đồng xây dựng và chú trọng vào các trường tốt. Chất lượng giáo dục hấp dẫn đối với gia đình có trẻ em nhỏ như kém hấp dẫn hơn với gia đình không có trẻ em.
Nếu một địa phương muốn thu hút một số nhóm ngành nghề cụ thể, họ có thể đưa ra và khuyến khích lợi ích của việc cư ngụ của một quốc gia hay địa phương cụ thể. Như ta thấy nỗ lực của Singapore trong việc thu hút các sinh viên sáng giá đến trường đại học của mình, tiêu chí tuyển sinh có các cấp độ khác nhau và từ những triển vọng khác nhau. Ngay cả ở những thành phố lớn hơn, các địa hạt khác nhau có những chiến lược quảng bá về địa phương của riêng mình. Chẳng hạn, ngay cả những địa hạt riêng biệt của Singapore cạnh tranh với nhau để thu hút cư dân mới. David Ng., giám đốc điều hành của Chestorton International nói về sự phát triển của cảng Clarke: “Tôi nghĩ rằng, chúng ta có thể rút ra được sự so sánh giữa khu vực với đường Orchard vì cả hai đều là vành đai mua sắm và vui chơi”. Ông đề nghị rằng, cả hai khu vực nên tìm cách đa dạng bản thân để cạnh tranh. Cảng Clarke có thể chọn quảng bá chính mình trên cơ sở không khí thoải mái và thân mật của nó, so với điều kiện hối hả và đầy khách du lịch của đường Orchard. Các thông điệp mục tiêu có thể được liên hệ thông qua các phương tiện truyền thông bằng in ấn cổ điển, ấn phẩm thương mại và ngay cả triển lãm quốc tế. Ngoài ra, mỗi địa hạt của Singapore có thể liên hệ các đặc tính hấp dẫn của mình trực tiếp đến thị trường toàn cầu thông qua internet.[6: tr11 – marketing asian places]
Ở Việt Nam, vấn đề này diễn ra rời rạc và tự phát, chủ yếu do các hộ gia đình tự tìm kiếm địa bàn cư trú mới chứ không chịu tác động bởi các hoạt động thu hút của địa phương. điều này cũng dẫn đến những khó khăn cho địa phương trong việc quản lý và kiểm soát các hộ gia đình chuyển đi hoặc mới di cư đến.
3.3. Nhà đầu tư
Mong muốn thu hút đầu tư kinh doanh, công nghiệp và kinh tế tạo nên nhóm khách hàng thứ ba này. Đây là nhóm khách hàng có lịch sử lâu dài nhất và cũng tạo nên thị trường nóng bỏng nhất hiện nay.
Các nhà đầu tư ngày càng trở nên chuyên nghiệp trong việc tìm kiếm và lựa chọn địa phương thích hợp. Trong một số trường hợp, ngân hàng và các nhà môi giới bất động sản ở địa phương nào đó chào hàng dịch vụ cho các nhà đầu tư. Các tổ chức ở nước ngoài như tham tán kinh tế phải tổ chức các dịch vụ tư vấn về địa phương đến các nhà đầu tư. Khi xem xét một địa phương, nhà đầu tư thường quan tâm đến các vấn đề, bao gồm: chiến lược phát triển địa phương, đánh giá thị trường lao động, so sánh điều kiện và chi phí hoạt động, so sánh thuế kinh doanh, nghiên cứu bất động sản, đánh giá động lực, đàm phán và ngay cả quản lý việc xây dựng dự án. Thu hút nhóm khách hàng này đang là xu hướng chung của các quốc gia thuộc khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam.
Để lại một bình luận