Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về thương mại điện tử. Bao gồm: Khái niệm, các mô hình ứng dụng, các cấp độ phát triển.
1. Khái niệm thương mại điện tử
Hiện nay, khái niệm thương mại điện tử chưa được thống nhất, vẫn còn tồn tại nhiều cách định nghĩa khác nhau. Nhưng nhìn chung, ta có hai quan điểm khái niệm thương mại điện tử như sau:
Khái niệm thương mại điện tử theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, thương mại điện tử chỉ đơn thuần là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ thông qua các phương tiện điện tử, nhất là qua Internet và các mạng viễn thông khác.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), “Thương mại điện tử bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như những thông tin số hoá thông qua mạng Internet”.
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), “Thương mại điện tử là công việc kinh doanh được tiến hành thông qua truyền thông số liệu và công nghệ tin học kỹ thuật số”.
Khái niệm thương mại điện tử theo nghĩa rộng:
Thương mại điện tử hiểu theo nghĩa rộng là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử, chuyển tiền điện tử và các hoạt động như gửi/rút tiền bằng thẻ tín dụng.
Theo quan điểm này, có hai định nghĩa khái quát được đầy đủ nhất phạm hoạt động của Thương mại điện tử:
Luật mẫu về Thương mại điện tử của Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) định nghĩa: “Thuật ngữ thương mại [commerce] cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại [commercial] bao gồm, nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing); xây dựng các công trình; tư vấn, kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp vốn, ngân hàng; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc tô nhượng, liên doanh và các hình thức về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ”.
Theo định nghĩa này, có thể thấy phạm vi hoạt động của thương mại điện tử rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, trong đó hoạt động mua bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một phạm vi rất nhỏ trong thương mại điện tử.
Theo Uỷ ban châu Âu: “Thương mại điện tử được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh”.
Thương mại điện tử trong định nghĩa này gồm nhiều hành vi trong đó: hoạt động mua bán hàng hoá; dịch vụ; giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng; chuyển tiền điện tử; mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử; đấu giá thương mại; hợp tác thiết kế; tài nguyên trên mạng; mua sắm công cộng; tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng; đối với thương mại hàng hoá (như hàng tiêu dùng, thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục) và các hoạt động mới (như siêu thị ảo).
Theo quan điểm thứ hai nêu trên, “thương mại” (commerce) trong “thương mại điện tử” không chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) theo các hiểu thông thường, mà bao quát một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, do đó việc áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của hầu hết nền kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử có tới trên 1.300 lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ chỉ là một lĩnh vực ứng dụng.
Bên cạnh đó, còn có một định nghĩa cho ta thấy hết những hoạt động của thương mại điện tử: “Thương mại điện tử đơn giản là các giao dịch được thực hiện thông qua các mạng công cộng và cá nhân, bao gồm một loạt các hoạt động như bán lẻ điện tử (e-Tailing), thị trường điện tử (e-Marketplace), dẫn dắt điện tử (e-Procurement), chính phủ điện tử (e-Government) và các dịch vụ ngân hàng điện tử (e-Banking), ERM (Enterprise Resource Management), CRM (Customer Relationship Management), MRP (Materials Requirements Planning) và VCM (Voice Connection Management)”.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
2. Các mô hình ứng dụng thương mại điện tử
Dựa vào các chủ thể tham gia giao dịch thương mại điện tử, người ta phân thành các mô hình ứng dụng thương mại điện tử gồm:
Giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp – B2B
B2B là loại hình giao dịch qua các phương tiện điện tử giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp. Theo Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), thương mại điện tử B2B chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại điện tử (khoảng 90%). Các giao dịch B2B chủ yếu được thực hiện trên các hệ thống ứng dụng thương mại điện tử như mạng giá trị gia tăng (VAN); dây chuyền cung ứng hàng hóa, dịch vụ (SCM); các sàn giao dịch thương mại điện tử… Các doanh nghiệp có thể chào hàng, tìm kiếm bạn hàng, đặt hàng, ký kết hợp đồng, thanh toán qua các hệ thống này. Ở một mức độ cao, các giao dịch này có thể diễn ra một cách tự động, thương mại điện tử B2B đem lại nhiều lợi ích thực tế cho doanh nghiệp, đặc biệt giúp giảm các chi phí về thu thập thông tin tìm hiểu thị trường, quảng cáo, tiếp thị, đàm phán; tăng các cơ hội kinh doanh…
Giao dịch giữa doanh nghiệp với khách hàng – B2C
B2C là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng qua các phương tiện điện tử. Doanh nghiệp sử dụng các phương tiện điện tử để bán hàng hóa, dịch vụ tới người tiêu dùng. Người tiêu dùng thông qua các phương tiện điện tử để lựa chọn, mặc cả, đặt hàng, thanh toán, nhận hàng. Giao dịch B2C tuy chiếm tỷ trọng ít (khoảng 10%) trong thương mại điện tử, nhưng có phạm vi ảnh hưởng rộng. Để tham gia hình thức kinh doanh này, thông thường doanh nghiệp sẽ thiết lập website, hình thành cơ sở dữ liệu về hàng hóa, dịch vụ, tiến hành các quy trình tiếp thị, quảng cáo, phân phối trực tiếp tới người tiêu dùng. Thương mại điện tử B2C đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp lẫn người tiêu dùng. Doanh nghiệp tiết kiệm nhiều chi phí bán hàng do không cần phòng trưng bày hay thuê người giới thiệu bán hàng, chi phí quản lý cũng giảm hơn. Người tiêu dùng sẽ cảm thấy thuận tiện vì không phải tới tận cửa hàng, có khả năng lựa chọn và so sánh nhiều mặt hàng cùng một lúc.
Giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước – B2G
B2G là loại hình giao dịch giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, trong đó cơ quan nhà nước đóng vai trò khách hàng. Quá trình trao đổi thông tin giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước được tiến hàng qua các phương tiện điện tử. Cơ quan nhà nước cũng có thể thiết lập các website, tại đó đăng tải thông tin về nhu cầu mua hàng của các cơ quan nhà nước, tiến hành việc đấu thầu hàng hóa, dịch vụ và lựa chọn nhà cung cấp trên website. Điều này, một mặt giúp tiết kiệm các chi phí tìm nhà cung cấp, mặt khác giúp tăng cường tính minh bạch trong hoạt động mua sắm công.
Giao dịch trực tiếp giữa các cá nhân với nhau – C2C
C2C là loại hình giao dịch giữa các cá nhân với nhau. Sự phát triển của các phương tiện điện tử làm cho nhiều cá nhân có thể tham gia hoạt động thương mại với tư cách là người bán, người cung cấp dịch vụ. Một cá nhân có thể tự thiết lập website để kinh doanh những mặt hàng do mình làm ra hoặc sử dụng một website có sẵn để đấu giá một số món hàng mình có. C2C góp phần tạo nên sự đa dạng của thị trường.
Giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân – G2C
G2C là loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân. Đây chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố của thương mại điện tử. Ví dụ, khi người dân đóng tiền thuế qua mạng, trả phí khi đăng ký hồ sơ trực tuyến, v.v…
3. Các cấp độ phát triển của thương mại điện tử
Thương mại điện tử được chia thành nhiều cấp độ phát triển. Nhưng nhìn chung ta có hai cách phân chia sau:
Cách phân chia thứ nhất: 6 cấp độ phát triển thương mại điện tử
Cấp độ 1 – hiện diện trên mạng: doanh nghiệp có website trên mạng. Ở mức độ này, website rất đơn giản, chỉ là cung cấp một thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm mà không có các chức năng phức tạp khác.
Cấp độ 2 – có website chuyên nghiệp: website của doanh nghiệp có cấu trúc phức tạp hơn, có nhiều chức năng tương tác với người xem, hỗ trợ người xem, người xem có thể liên lạc với doanh nghiệp một cách thuận tiện.
Cấp độ 3 – chuẩn bị thương mại điện tử: doanh nghiệp bắt đầu triển khai bán hàng hay dịch vụ qua mạng. Tuy nhiên, doanh nghiệp chưa có hệ thống cơ sở dữ liệu nội bộ để phục vụ các giao dịch trên mạng. Các giao dịch còn chậm và không an toàn.
Cấp độ 4 – áp dụng thương mại điện tử: website của doanh nghiệp liên kết trực tiếp với dữ liệu trong mạng nội bộ của doanh nghiệp, các hoạt động truyền dữ liệu được tự động hóa, hạn chế sự can thiệp của con người và vì thế làm giảm đáng kể chi phí hoạt động và tăng hiệu quả.
Cấp độ 5 – thương mại điện tử không dây: doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử trên các thiết bị không dây như điện thoại di động, pocket PC (máy tính bỏ túi) v.v… sử dụng giao thức truyền thông không dây WAP (Wireless Application Protocal).
Cấp độ 6 – cả thế giới trong một máy tính: chỉ với một thiết bị điện tử, người ta có thể truy cập vào một nguồn thông tin khổng lồ, mọi lúc, mọi nơi và mọi loại thông tin (hình ảnh, âm thanh, phim, v.v…) và thực hiện các loại giao dịch.
Cách phân chia thứ hai: 3 cấp độ phát triển thương mại điện tử
Cấp độ 1 – thương mại thông tin (i-commerce với i: information): doanh nghiệp có website trên mạng để cung cấp thông tin về sản phẩm, dịch vụ… Các hoạt động mua bán vẫn thực hiện theo cách truyền thống.
Cấp độ 2 – thương mại giao dịch (t-commerce với t: transaction): doanh nghiệp cho phép thực hiện giao dịch đặt hàng, mua hàng qua website trên mạng, có thể bao gồm cả thanh toán trực tuyến.
Cấp độ 3 – thương mại tích hợp (c-business với c: colaborating, connection: tích hợp, kết nối): website của doanh nghiệp liên kết trực tiếp với dữ liệu trong mạng nội bộ của doanh nghiệp, mọi hoạt động truyền dữ liệu được tự động hóa, hạn chế sự can thiệp của con người và vì thế làm giảm đáng kể chi phí hoạt động và tăng hiệu quả.
Trong đề tài này, chúng ta sẽ sử dụng cách phân chia thứ hai để đánh giá mức mức độ phát triển thương mại điện tử của công ty cổ phần thương mại và nội thất HT. Vì với cách chia thứ hai, ta có thể đánh giá vị trí ứng dụng thương mại điện tử của công ty đơn giản, nhanh hơn so với cách phân chia đầu tiên.
4. Một số khái niệm liên quan trong thương mại điện tử
Để có thể hiểu rõ hơn về thương mại điện tử, ta cần nắm một số định nghĩa chuyên ngành. Những định nghĩa sau được diễn giải theo khía cạnh kinh tế nhiều hơn khía cạnh công nghệ thông tin nhằm giúp ta dễ hình dung được những lợi ích của thương mại điện tử trong hoạt động kinh doanh.
Website
Website là một “Show-room” trên mạng Internet – nơi trưng bày và giới thiệu thông tin, hình ảnh về doanh nghiệp và sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp (hay giới thiệu bất kỳ thông tin nào khác) cho mọi người trên toàn thế giới truy cập bất kỳ lúc nào (24 giờ mỗi ngày, 7 ngày mỗi tuần).
Website là một tập hợp một hay nhiều trang web, giống như một quyển sách là tập hợp nhiều trang sách. Có thể có những website chỉ có một trang web, nhưng ít gặp trường hợp này. Nếu nói “Doanh nghiệp tôi muốn xây dựng trang web” là không chính xác về mặt từ ngữ, mà phải nói là “Doanh nghiệp tôi muốn xây dựng một website”.
Đặc điểm tiện lợi của website: thông tin dễ dàng cập nhật, thay đổi, khách hàng có thể xem thông tin ngay tức khắc, ở bất kỳ nơi nào, tiết kiệm chi phí in ấn, gửi bưu điện, fax, thông tin không giới hạn (đăng tải thông tin không hạn chế, không giới hạn số trang, diện tích bản in …) và không giới hạn phạm vi địa lý.
Để một website hoạt động được, ta cần phải có tên miền (domain), lưu trữ (hosting) và nội dung (các trang web hay cơ sở dữ liệu thông tin):
Domain hay còn gọi là tên miền của website. Có nhiều loại tên miền: tên miền quốc gia (có đuôi tận cùng là .vn, .uk, .th …); và tên miền quốc tế (có đuôi tận cùng là .com, .net, .org …). Tên miền quốc tế có thể được mua trên mạng Internet.
Host (hay còn gọi là hosting, web hosting): là nơi không gian trên máy chủ (server) có cài dịch vụ Internet như http, ftp,…, nơi đó bạn có thể chứa nội dung trang web hay dữ liệu trên không gian đó. Lý do bạn phải thuê Web Hosting để chứa nội dung trang web, dịch vụ mail, ftp, vì những máy tính đó luôn có một địa chỉ cố định khi kết nối vào Internet (đó là địa chỉ IP) , còn như nếu bạn truy cập vào internet như thông thường hiện nay thông qua các ISP (Internet Service Provider – Nhà cung cấp dịch vụ Internet) thì địa chỉ IP trên máy bạn luôn bị thay đổi, do đó dữ liệu trên máy của bạn không thể truy cập được từ những máy khác trên Internet.
Tùy theo nhà cung cấp dịch vụ Web hosting mà chất lượng cũng khác nhau như:
Tốc độ truy cập Internet tại server Web hosting đó.
Dung lượng đĩa cho phép bạn có thể chứa được nhiều trang web hoặc dữ liệu của bạn hay không.
Các tiện ích như các hệ quản trị cơ sở dữ liệu có hỗ trợ để giúp bạn viết một chương trình Web trên đó không.
Có hai loại hosting. Đó là Unix hosting và Window hosting
Unix Hosting:
Unix là hệ thống server cũ mà hầu hết các nhà cung cấp host Việt Nam đang sử dụng. Khi host trên server này, người soạn web phải có kiến thức viết web bằng HTML rất vất vả, soạn từng trang hoặc soạn script CGI rất cực nhọc và phải upload bằng FTP. Nếu có sửa lại thư mục hoặc mất một trang thì phải kiểm tra lại toàn bộ các đường dẫn đến trang đó. Các tiện ích như counter đếm số người truy cập, form nhập liệu cũng phải viết bằng ngôn ngữ CGI đều phải viết riêng, rất mất thì giờ như thể người ta phải chế tạo lại cái bánh xe vậy.
Window Hosting:
Server WINDOW hiện nay đang là thời thượng vì Microsoft cố gắng hỗ trợ hoàn toàn và dễ dàng cho người dùng mà ngay cả người không chuyên nghiệp vẫn có thể tạo ra trang web nhìn rất ư chuyên nghiệp. Một trong những tính năng của server window là có hỗ trợ Frontpage extension.
Để lại một bình luận