Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn những vấn đề cơ bản về sản phẩm thủ công mỹ nghệ và làng nghề.
1. Một số khái niệm liên quan đến sản phẩm thủ công mỹ nghệ và làng nghề
1.1. Làng nghề
Đã có những công trình nghiên cứu về nghề và làng nghề của các nhà kinh tế, văn hóa, sử học với những quan niệm khác nhau về làng nghề.
làng nghề, mặc dù vẫn có các hoạt động sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi…) nhưng đã nổi trội một nghề cổ truyền tính xảo với một tầng lớp thợ thủ công có cơ cấu tổ chức, có quy trình công nghệ nhất định, chuyên tâm làm nghề, sống chủ yếu được bằng nghề đó với những sản phẩm thủ công mỹ nghệ mang tính hàng hóa.
“LN là một thiết chế kinh tế – xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố làng và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định. Trong đó, bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết chặt chẽ về kinh tế – xã hội và văn hoá” [1].
Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương… song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tính xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả… cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng hóa và có quan hệ tiếp thị với một thị trường là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”[2].
Như vậy, khái niệm LN được hiểu là những làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Làng nghề truyền thống
Theo GS. Hoàng Văn Châu và nhiều người khác [3]: LNTT trước hết là LN được tồn tại và phát triển lâu đời trong lịch sử, gồm một hoặc nhiều nghề thủ công truyền thống, truyền tải giá trị về văn hóa, kỹ thuật, mỹ thuật độc đáo của địa phương và mang tính lịch sử. LNTT hội tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp, có phường nghề, có quy trình công nghệ, có mức độ tinh xảo nhất định và phần lớn dân làng sống chủ yếu bằng nghề đó. Họ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên luôn ý thức tuân thủ những ước chế xã hội và gia tộc. Ở các LN, vẫn tồn tại bộ phận sản xuất nông nghiệp, tuy nhiên, nghề thủ công đã tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và thể hiện tính độc lập tương đối của nó.
Ngoài các LNTT, trong thực tế còn có các LN mới du nhập gọi tắt là LN mới. Đây là những LN có ngành nghề phát triển trong những năm gần đây, chủ yếu do sự lan toả từ LN truyền thống hoặc do sự du nhập nghề trong quá trình hội nhập giữa các vùng, các địa phương trong nước và giữa các nước. Ngay các LN truyền thống cũng có sự đan xen giữa các nghề mới và nghề truyền thống.
1.3. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ
Hàng TCMN/sản phẩm TCMN được hiểu là một loại hàng thủ công/ sản phẩm thủ công được dùng cho mục đích thưởng thức nghệ thuật và trang trí nhà cửa, nội thất của khách hàng. [5]
Ngành nghề TCMN bên cạnh các yếu tố cấu thành nó có những nét đặc thù riêng, đó là: sản phẩm tiêu biểu và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và chất lượng rất cao, vừa là hàng hóa , vừa là sản phẩm văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thậm chí trở thành các di sản văn hóa của dân tộc, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Chính yếu tố nghệ thuật, văn hóa vật thể là một đặc thù hết sức quan trọng của hàng thủ công mỹ nghệ. Sự kết hợp giữa phương pháp thủ công tinh xảo và sự sáng tạo nghệ thuật của nghệ nhân và thợ thủ công để tạo ra hàng thủ công mỹ nghệ đã kéo theo những đặc thù khác trong sự phát triển của ngành nghề TCMN và được xem như những tiêu chí của ngành nghề này:
Tính riêng, đơn chiếc mạnh hơn tính đồng loạt
Chiều sâu nhiều hơn chiều rộng, mang tính trường phái, giữ bí quyết trong sáng tạo hơn là sự phổ cập, phổ biến rộng rãi
Đầy chất trí tuệ, tri thức tích tụ lâu đời
Sử dụng hàng thủ công đồng thời thưởng thức nó nữa (thưởng thức nghệ thuật và tư tưởng, trí tuệ)
Ngành nghề thủ công mỹ nghệ là một bộ phận quan trọng của ngành nghề thủ công truyền thống. Ngành nghề TCMN có vai trò rất lớn trong quá trình phát triển ngành nghề TCTT của Việt Nam, sản phẩm thủ công mỹ nghệ là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật – công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo với đầu óc sáng tạo nghệ thuật.
Theo Trần Văn Kinh, 2002[4], hàng thủ công là loại sản phẩm nghệ thuật, kết tinh từ những thành tựu kỹ thuật – công nghệ truyền thống, phương pháp thủ công tinh xảo, với đầu óc sáng tạo nghệ thuật.
2. Đặc điểm và vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế xã hội
2.1. Đặc điểm
Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện trong từng làng – xã ở nông thôn sau đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất – kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau, người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân.
công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu.
Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công , công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ – kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hóa và điện khí hóa từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số không nhiều nghề có khả năng cơ giới hóa được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.
Đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chổ, hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn địa phương, cũng có thể có một số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm…song không nhiều.
Phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công , giản đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ, việc ứng dụng khoa học – công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt được lượng lao động thủ công , giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong các gia đình từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng làng. Sau này, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dạy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn.
Sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở nhà nước… Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh và một phần cho xuất khẩu.
– Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.
2.2. Vai trò
Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đa dạng hóa kinh tế nông thôn
Quá trình phát triển các làng nghề đã có vai trò tích cực góp phần tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất có thu nhập còn rất thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Như vậy, khi ngành nghề thủ công hình thành và phát triển thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà bên cạnh là các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng tồn tại phát triển.
Nếu xem xét trên góc độ của sự phân công lao động thì các LN đã có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Khi các ngành nghề chế biến phát triển, yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp nhiều hơn, đa dạng hơn và chất lượng cao hơn. Do đó, trong nông nghiệp hình thành những bộ phận nông nghiệp chuyên canh hóa, tạo ra năng suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hóa [9]. Đồng thời, người nông dân trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự tìm thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào có lợi nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp đã được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.
Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
Yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế – xã hội ở nông thôn, tạo việc làm nâng cao đời sống cho dân cư ở nông thôn là vấn đề quan trọng hiện nay ở nước ta. Do diện tích đất bị thu hẹp do quá trình đô thị hóa, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở khu vực nông thôn trở nên hết sức cấp bách, đòi hỏi sự hỗ trợ về nhiều mặt và đồng bộ của các ngành nghề và lĩnh vực.
Cung cấp một khối lượng hàng hóa cho xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế
Khôi phục và phát triển làng nghề ở nông thôn sẽ tạo điều kiện cho việc huy động một cách tối đa mọi nguồn lực sẵn có ở khu vực nông thôn như nguồn lực tự nhiên, nguồn lực cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm năng vốn, các nguyên liệu sẵn có ở địa phương phục vụ cho sản xuất. Do đó, sản xuất được đẩy mạnh và tạo ra nhiều hàng hóa có chất lượng cao, đa dạng phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mặt khác, sản xuất trong các làng nghề thường tương đối năng động và gắn chặt với nhu cầu thị trường, vì vậy mà sản xuất của làng nghề mang tính chuyên môn hóa và đa dạng hóa cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Điều này dẫn đến tỷ trọng sản phẩm hàng hóa ở các làng nghề thường cao hơn rất nhiều so với các làng thuần nông và khối lượng sản xuất hàng hóa sản xuất ra cũng lớn hơn nhiều.
Sản phẩm của làng nghề có giá trị kinh tế và xuất khẩu, nên việc phát triển làng nghề góp phần cùng sản xuất nông nghiệp làm tăng trưởng kinh tế ở nông thôn. Cho nên phát triển làng nghề là thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo trong nông thôn.
Tận dụng nguồn lực, phát huy thế mạnh nội lực của địa phương
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng của sự phát triển.
Nguồn lực của làng nghề bao gồm những nghệ nhân, những người thợ thủ công và những chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Khả năng cạnh tranh, sức sống của không ít sản phẩm như: dệt thổ cẩm, mộc dân dụng, tơ lụa…đều dựa vào tay nghề của người lao động.
Mỗi làng nghề có những thợ cả, nghệ nhân bậc thầy, họ giữ vai trò quan trọng trong việc giữ nghề, truyền nghề. Tuy nhiên, số lượng những người giỏi nghề ngày một ít đi. Trong khi đó kinh nghiệm nghề nghiệp được coi là bí mật, chỉ được truyền cho con cháu trong gia đình, dòng họ [8]. Điều này làm cản trở không nhỏ đến chất lượng và khả năng cạnh tranh sản phẩm. Bên cạnh đó, các nghề thủ công cho phép khai thác triệt để hơn các nguồn lực của địa phương, cụ thể là nguồn lao động, tiền vốn.
Một khi làng nghề phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh thị trường lớn. Như vậy, các nghề thủ công phát triển mạnh nó càng có điều kiện để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn. Hơn nữa, khi cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường và hiện đại, chính là tạo điều kiện cho đội ngũ lao động thích ứng với tác phong công nghiệp, nâng cao tính tổ chức, tính kỷ luật. Đồng thời, trình độ văn hóa của người lao động nâng cao, lại là cơ sở thuận lợi cho việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào lĩnh vực sản xuất và hoạt động dịch vụ trong làng nghề . Bởi vậy, phát triển làng nghề trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tùy thuộc vào việc xây dựng đội ngũ nghệ nhân, thợ giỏi và việc truyền nghề cho những lao động trẻ tuổi.
Khôi phục và phát triển làng nghề góp phần bảo tồn giá trị văn hóa dân tộc của địa phương
Khai thác được tiềm năng cũng như phát huy được lợi thế so sánh, lợi thế nhờ quy mô ở từng vùng, từng địa phương góp phần thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và CNH, HĐH nông thôn nói riêng.
Như vậy, làng nghề không chỉ là nơi sản xuất ra hàng hóa mà còn chứa đựng những tiềm ẩn giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống văn hóa của dân tộc được lưu truyền bao đời nay. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc phát triển làng nghề còn là cơ sở để tổ chức du lịch làng nghề thu lợi nhuận cao, có khả năng thu hút đông đảo du khách tìm hiểu, chiêm ngưỡng những nét văn hóa, những sản phẩm truyền thống của dân tộc.
3. Sự cần thiết phải phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề
Trong giai đoạn nền kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp do cơ chế quản lý, các hộ gia đình, các làng nghề không được tự do kinh doanh, sản xuất mà phải gia nhập các HTX tiểu thủ công nghiệp. Vì thế, LN không được phát triển và có phần mai một, hệ thống HTX tiểu thủ công nghiệp hoạt động kém hiệu quả và bắt đầu đổi mới nền kinh tế.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, cá nhân, hộ gia đình được tự do đầu tư và sản xuất kinh doanh những sản phẩm mà pháp luật không cấm; được bình đẳng trước pháp luật. Nhiều LN được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, trở thành một xu hướng phát triển tất yếu do:
Môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi, cơ chế quản lý của nhà nước thay đổi đã cho phép mọi cá nhân, hộ gia đình tự do đầu tư sản xuất kinh doanh, các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật; Do đó, các DNTN, Công ty TNHH, CTCP được ra đời và phát triển hệ thống pháp luật được xây dựng và hoàn thiện đã cởi trói cho cá nhân và doanh nghiệp, mở đường cho sản xuất phát triển dẫn đến LNTT ở nông thôn cũng được phát triển. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng như đường giao thông, cầu cống điện nước, bưu chính viễn thông, trường học, trạm y tế … tạo điều kiện thuận lợi trong giao lưu trao đổi hàng hóa, mở rộng các loại thị trường hàng hóa, lao động, tài chính …
Phát triển LN gắn với lợi ích, đời sống thiết thực của nông dân. Xuất phát từ lợi ích cá nhân, hộ gia đình vì mục tiêu lợi nhuận mà bản thân LN tự nó phát triển. Mặt khác, trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước đã quan tâm nhiều đến sự phát triển nông nghiệp, nông thôn trong đó có LN nhằm mục đích nhanh chóng nâng cao đời sống của nông dân, giảm nhành khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Những chủ trương, đường lối, chính sách đó là động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển, đa dạng hóa sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa sản phẩm của LN. Trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, tiến bộ KHCN, máy móc hiện đại được được đưa vào sử dụng trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất ngành nghề, góp phần giải phóng sức lao động, nâng cao trình độ sản xuất và năng suất lao động. Từ đó, tạo ra một bộ phận lao động, một bộ phận thời gian dư thừa trong nông nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết công ăn việc làm cho bộ phận dư thừa đó. Phát triển sản xuất kinh doanh các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp , là cơ sở để phát triển công nghiệp nông thôn, hình thành các khu đô thị góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế chủ yếu là công nghiệp.
Gắn liền với việc giữ gìn thương hiệu sản phẩm, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bởi vì: Lịch sử phát triển kinh tế cũng như lịch sử của nền văn hóa Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử phát triển làng nghề, mỗi một làng nghề là một địa chỉ văn hóa nó phản ánh nét văn hóa độc đáo của từng địa phương, từng vùng. LN thể hiện những nét văn hóa độc đáo qua từng sản phẩm, qua các lễ hội và phong tục tập quán. Bởi làng nghề có những sản phẩm bằng tay, chất liệu, kiểu dáng và từng chi tiết khéo léo tinh xảo trên các sản phẩm thủ công chính là nơi chuyển tải các sắc thái văn hóa địa phương góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.
4. Các yếu tố tác động đến sự phát triển đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của làng nghề truyền thống quá trình phát triển làng nghề truyền thống chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Ở mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi làng nghề do có những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa nên sự tác động của các yếu tố không giống nhau. Tuy nhiên hiểu một cách tổng quát chúng gồm các yếu tố sau:
* Yếu tố chủ trương, chính sách của nhà nước
Các làng nghề thủ công, trên thực tế bao giờ cũng hoạt động trong một môi trường thể chế. Nói cách khác môi trường thể chế luôn tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở các làng nghề. Môi trường thể chế bảo đảm cho làng nghề phát triển bền vững, phát huy được các giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội các giá trị đạo đức, tín nhiệm và lương tâm người thợ thông qua chất lượng sản phẩm được làm ra. Môi trường thể chế gồm quy chế của làng và chính sách pháp luật của nhà nước.
Trong hầu hết các làng nghề thủ công truyền thống, nổi tiếng ở nước ta, đều có quy chế về nghề thủ công, hoặc thành văn bản riêng hoặc trong một số điều của Hương ước. Thậm chí mỗi phường nghề trong cùng một nghề ở cùng một làng cũng có quy chế riêng, dưới dạng “lời thề”, “lời nguyền”. Những quy chế này truyền từ đời này sang đời khác, bắt buộc các thành viên trong gia tộc, trong phường hội phải tuân theo, thực hiện một cách khá nghiêm ngặt.
Những quy định nghiêm ngặt trong các làng nghề là biện pháp giữ bí mật và bí quyết nghề nghiệp của những người thợ trong các làng nghề. Điều đó có tác dụng tích cực đối với việc duy trì lâu dài hoạt động sản xuất của mỗi làng nghề. Tuy nhiên, sự độc quyền của các thế hệ thợ thủ công trong mỗi làng nghề như thế đã kìm hãm sự phát triển của nghề trong phạm vi cả nước. Sau này, khi các trường dạy nghề mở ra, cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ thì những hạn chế trên đây thay đổi theo hướng tích cực hơn.
Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ trước đổi mới, trong chính sách đối với các thành phần kinh tế, chúng ta chỉ tập trung phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, không chấp nhận kinh tế tư nhân, cá thể, nên các làng nghề theo nghĩa là đơn vị kinh tế độc lập đã chuy ể n thành hợp tác xã, hoặc các tổ, đội ngành nghề phụ trong các hợp tác xã sản xu ấ t nông nghiệp, làm cho các nghề phụ không phát triển được. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, khi hộ gia đình được công nhận là chủ thể kinh tế độc lập tự chủ cho nông thôn, các doanh nghiệp tư nhân được phép phát triển chính thức, thì các làng đã có điều kiện phục hồi và phát triển mạnh.
Trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây, vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn đã được quan tâm đặc biệt. Đây chính là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Chính vì vậy, các chính sách về doanh nghiệp, vốn, thuế, đào tạo nguồn nhân lực, quản lý thị trường… Là động lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế nông thôn nói chung và làng nghề nước ta nói riêng. Nếu không có các chính sách phát triển hợp lý đối với sự kết hợp giữa đại công nghiệp với tiểu thủ công nghiệp thì các làng nghề cũng khó có điều kiện phát triển.
* Yếu tố kết cấu hạ tầng
Kết cấu hạ tầng trước hết là giao thông, điện, cấp thoát nước, bưu chính viễn thông… có sự ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp rất lớn tới sự hình thành tồn tại và phát triển của làng nghề, trong đó giao thông vận tải là yếu tố quan trọng nhất. Nhờ có giao thông phát triển mà nguyên liệu và sản phẩm được giao lưu dễ dàng hơn phục vụ tốt hơn việc đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Làng nghề phát triển tốt là đều có giao thông thuận tiện, đây là điều kiện quan trọng vì nếu không tiện đường giao thông thì làng nghề khó tồn tại lâu dài.
Điện có nhiều tác dụng trong đó đặc biệt là đáp ứng nhu cầu cơ khí hóa trước hết là cơ giới hóa ở một số khâu, công đoạn trong quá trình sản xuất áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Thông tin là cầu nối để người sản xuất nắm bắt được nhu cầu sở thích của khách hàng t từ đó ra quyết định về mẫu mã sản phẩm, giá bán đồng thời thông tin còn giúp cho chủ doanh nghiệp quảng bá sản phẩm tiêu thụ sản phẩm.
* Yếu tố thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề truyền thống phụ thuộc rất lớn vào thị trường và sự biến động của nó. sản xuất càng phát triển càng thể hiện rõ sự chi phối của quan hệ cung – cầu và quy luật cạnh tranh. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu thị trường thường có tốc độ phát triển nhanh. Đó là những làng nghề mà sản phẩm của nó có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn đổi mới cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng của xã hội. Điều này được chứng minh ở sự phát triển mạnh của một số làng nghề truyền thống gốm sứ mỹ nghệ, chạm, khắc gỗ. Ngược lại một số làng nghề không phát triển được, ngày càng bị mai một có nguy cơ bị mất đi vì những lý do: Không đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường, hoặc nhu cầu của thị trường, hoặc nhu cầu của thị trường không cần đến loại sản phẩm đó nữa.
* Yếu tố nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất
Trong bất kỳ một cơ sở sản xuất nào số lượng nguyên liệu dự trữ trong kho bãi hay đang trên đường về nhà đóng một vai trò quan trọng quyết định trong chiến luôn đầu tư sản xuất kinh doanh, quy mô sản xuất cả cơ sở. Chủng loại nguyên liệu, chất lượng, giá cả các nguyên liệu còn ảnh hưởng đến chất lượng và giá cả sản phẩm, hàng hóa sản xuất ra. Chất lượng sản phẩm tốt được đảm bảo, càng thu hút được người tiêu dùng và nâng cao được thị phần sản phẩm của các làng nghề trên thị trường.
Trong thời kỳ phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật chưa phát triển, thì gần các vùng nguyên liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên sự hình thành và phát triển các làng nghề truyền thống. Hiện nay, các nguyên liệu khai thác phục vụ cho các làng nghề chủ yếu từ môi trường tự nhiên nên vùng nguyên liệu ngày càng suy giảm (như gỗ…), gây khó khăn cho sản xuất vì nguyên liệu đang bị cạn kiệt. Do vậy khối lượng, chất lượng, chủng loại, khoảng cách của các nguồn nguyên liệu có ảnh hưởng tới chất lượng và giá thành sản phẩm.
* Yếu tố môi trường trong làng nghề
Môi trường lao động ảnh hưởng đến hoạt động sinh lí, sức khỏe bệnh tật của người lao động. Với điều kiện thời tiết khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của nước ta, lại cộng thêm tác động c ủ a các yếu tố độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất như hơi khí độc, cường độ ồn, bụi…sẽ có ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe của người lao động. Trong những điều kiện như thế, người lao động sẽ bị ảnh hưởng về thần kinh, tâm lí và dẫn đến rối loạn sinh lí, suy giảm sức khỏe, suy giảm khả năng lao động, tăng ốm đau, bệnh tật, bệnh nghề nghiệp. Tất cả những điều đó sẽ ảnh hưởng đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Mặt khác, ô nhiễm môi trường lao động cũng sẽ lan tỏa gây ô nhiễm các khu vực lân cận, ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
Việc phát triển các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở vùng nông thôn nước ta lại sử dụng công nghệ lạc hậu, trang thiết bị cũ kỹ cũng làm cho vấn đề ô nhiễm môi trường sống ở làng nghề nông thôn ngày càng trở nên nghiêm trọng. Ô nhiễm môi trường do công nghiệp nông thôn tạo ra rất đa dạng, đó là chất thải rắn, khí thải, bụi, tiếng ồn…
Làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ô nhiễm cũng ngày càng gia tăng do các tác động từ nhiệt độ cao, bụi, tiếng ồn hoặc mặt bằng nhà xưởng. Nếu làm việc trong môi trường độc hại, nhiều nguy hiểm, người lao động sẽ chịu hậu quả là làm giảm năng suất lao động, suy giảm về sức khỏe, tăng nguy cơ mắc bệnh tật, điều này tăng chi phí khám chữa bệnh, giảm thu nhập của người lao động, càng gây khó khăn hơn cho cuộc sống sinh hoạt của mỗi gia đình, đồng thời lan tỏa ảnh hưởng đến phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Vì vậy môi trường cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển làng nghề.
* Yếu tố nguồn vốn đầu tư và phát triển
Vốn là yếu tố, là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ quá trình sản xuất – kinh doanh nào. Sự phát triển thịnh vượng của các làng nghề cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng của nhân tố vốn sản xuất. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất – kinh doanh trong các làng nghề rất nhỏ, thường là vốn tự có của từng gia đình hoặc vay mượn bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không mở rộng được. Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn rất lớn, đòi hỏi các hộ sản xuất – kinh doanh trong các làng nghề phải có đủ lượng vốn để đầu tư cải tiến công nghệ, đưa thiết bị, máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
* Yếu tố nguồn lao động
Lao động trong các làng nghề chủ yếu là lao động sáng tạo. Các sản phẩm của làng nghề là nơi gửi gắm tâm hồn, sự sáng tạo của nghệ nhân. Các sản phẩm thủ công vừa phải đảm bảo có giá trị sử dụng nhưng cũng phải có tính nghệ thuật cao, chứa đựng phong cách riêng. Thực tế để tạo ra được những sản phẩm tinh xảo thì ngoài năng khiếu bẩm sinh, người lao động cần trải qua một thời gian đào tạo lâu dài mà nhiều khi họ không đủ kiên nhẫn để theo đuổi đến cùng. Bên cạnh đó, với phương thức đào tạo theo kiểu nghề truyền thống như hiện nay, những kỹ năng bí quyết nghề nghiệp nhiều khi chỉ truyền lại cho gia đình. Chính điều này đã làm cho số lượng thợ cả, nghệ nhân mới ngày càng hạn chế trong khi đó những nghệ nhân cũ ngày càng mất đi, như vậy những tinh hoa của làng nghề ngày càng bị mai một.
Ngày nay, khi làng nghề tồn tại trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì ngoài kỹ năng, bí quyết riêng của người thợ, sự phát triển của làng nghề đòi hỏi người sản xuất, nhất là các chủ hộ phải có kiến thức kinh doanh như quản lý sản xuất, tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề đào tạo nâng cao trình độ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, chất lượng nguồn lao động chưa cao, trình độ chuyên môn và văn hóa thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp trong việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước cũng như quốc tế.
* Yếu tố khoa học công nghệ và thiết bị sản xuất
công nghệ là một nhân tố quan trọng chi phối các hoạt động sản xuất. Trong các làng nghề bao giờ cũng có nghệ nhân có tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất, tâm huyết với nghề, là những hạt nhân duy trì nét độc đáo của làng nghề, đó là sự khác biệt của các sản phẩm làng nghề.
Tuy nhiên, chỉ có kinh nghiệm cổ truyền thôi chưa đủ mà phải có khoa học công nghệ hiện đại, đó là mặt tiêu cực của yếu tố truyền thống. Đồng thời những quy tắc khắt khe, hạn chế trong luật nghề, lệ làng đã cản trở không nhỏ đến việc mở rộng sản xuất – kinh doanh của làng nghề.
Trong cơ chế thị trường phát triển của làng nghề đã thể hiện cuộc cạnh tranh gay gắt về năng suất, chất lượng, giá cả, sản phẩm sản xuất ra chịu sự cạnh tranh của những sản phẩm cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, giao lưu thương mại mang tính toàn cầu thì việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ càng có tác động to lớn đến khả năng cạnh tranh, tăng năng suất lao động và chất lượng của sản phẩm.
Để lại một bình luận