Trong bài viết trước, tailuanvan.com đã chia sẻ về vai trò và nội dung của đầu tư phát triển công nghiệp. Ở bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ đến bạn nguồn vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng.
1. Nguồn vốn đầu tư phát triển công nghiệp
Nguồn vốn cho đầu tư phát triển sẽ bao gồm nguồn vốn trong nước (nguồn vốn nhà nước; nguồn vốn ngoài nhà nước) và nguồn vốn nước ngoài (tài trợ phát triển chính thức, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng thương mại quốc tế và thị trường vốn quốc tế).
1.1. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn đầu tư trong nước cho công nghiệp là phần tích lũy nội bộ của nền kinh tế bao gồm: tiết kiệm của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và tiết kiệm của chính phủ được huy động vào quá trình tái sản xuất ngành công nghiệp. Biểu hiện cụ thể của nguồn vốn đầu tư trong nước gồm nguồn vốn đầu tư nhà nước và nguồn vốn của dân cư và tư nhân.
– Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế quy mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng tăng đáng kể.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể việc bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ hình thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội như xóa đói, giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là thành phần chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Tuy vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội nói chung cũng như đầu tư vào ngành công nghiệp nói riêng.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Thực tế thời gian qua cho thấy đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…trên các địa phương. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích lũy truyền thống.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm toàn bộ phần tích lũy của cả nhân, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế (International Capital Flows). Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể của quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng chảy từ các nước phát triển chảy vào các nước đang phát triển thường được các nước có thu nhập thấp đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:
1.2.1. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)
Nguồn vốn ODA (Official Development Assistance): Là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (nhà nước hay địa phương) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. ODA mang tính ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vay tương đối lớn, bao giờ cũng có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
– ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương.
Các tổ chức viện trợ song phương thường là chính phủ các nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Đức, Úc…
1.2.2. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở các nước nhận đầu tư.
2. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển công nghiệp
2.1. Kết quả hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp
Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm của ngành công nghiệp
2.1.1. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện của ngành công nghiệp
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện ngành công nghiệp là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư, bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm máy móc thiết bị và các chi phí khác được xác định trong dự án đầu tư công nghiệp được duyệt.
Như vậy có nhiều loại chi phí khác nhau được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Cụ thể:
* Chi phí xây dựng bao gồm:
Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ (có tính đến giá trị vật tư, vật liệu thu hồi được (nếu có) để giảm vốn đầu tư.
Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phục vụ cho thi công (đường thi công, điện, nước …), nhà tạm tại hiện trường để ở và điều hành thi công (nếu có).
Chi phí xây dựng các hạng mục công trình.
* Chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị bao gồm:
Chi phí lắp đặt các thiết bị (đối với các thiết bị cần phải lắp đặt).
Chi phí di chuyển lớn thiết bị thi công và lực lượng xây dựng.
Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ (gồm cả thiết bị phi tiêu chuẩn cần sản xuất, gia công (nếu có), các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc, sinh hoạt của công trình (bao gồm thiết bị lắp đặt và thiết bị không cần lắp đặt)).
Chi phí vận chuyển từ cảng và nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho, lưu bãi, lưu container (nếu có), chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho bãi tại hiện trường.
Thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình
* Chi phí quản lý dự án và chi phí khác bao gồm:
Chi phí quản lý chung của dự án, chi phí tổ chức thực hiện công tác đền bù giải phóng mặt bằng; chi phí thẩm định hoặc thẩm tra thiết kế, tổng dự toán, dự toán xây dựng công trình; chi phí lập hồ sơ dự thầu, hồ sơ mời thầu, phân tích đánh giá dự thầu, hồ sơ đấu thầu; chi phí giám sát thi công xây dựng, giám sát khảo sát xây dựng và lắp đặt thiết bị; chi phí kiểm định và chứng nhận phù hợp về chất lượng công trình xây dựng; chi phí nghiệm thu, quyết toán, quy đổi vốn đầu tư và chi phí quản lý khác.
Chi phí lập báo cáo đầu tư xây dựng công trình đối với dự án công trình quan trọng quốc gia, các dự án nhóm A; lập dự án đầu tư xây dựng công trình; lập báo cáo kinh tế kỹ thuật, nghiên cứu khoa học công nghệ liên quan đến dự án (nếu có).
Chi phí khảo sát xây dựng, chi phí thiết kế xây dựng công trình, chi phí thi tuyển kiến trúc (nếu có).
Chi phí khởi công, khánh thành, tuyên truyền quảng cáo (nếu có).
Chi phí thẩm định an toàn giao thông, chi phí lập định mức, đơn giá (nếu có).
Chi phí cho Ban chỉ đạo Nhà nước, Hội đồng nghiệm thu nhà nước (nếu có).
Chi phí đăng kiểm chất lượng quốc tế (nếu có); chi phí quan trắc biến dạng công trình (nếu có).
Lệ phí thẩm định dự án (bao gồm cả thiết kế cơ sở), giấy phép xây dựng (nếu có).
Chi phí bảo hiểm công trình.
Chi phí kiểm toán, thẩm tra, phê duyệt quyết toán vốn đầu tư.
Một số chi phí khác
Các hoạt động đầu tư phát triển đều tính các khoản chi phí trên vào tổng khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Tuy nhiên cần lưu ý đối với những công cuộc đầu tư có quy mô lớn, thời gian đầu tư kéo dài thì vốn đầu tư thực hiện là số vốn đã chi cho từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành. Còn đối với công cuộc đầu tư có quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn, vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ công việc của quá trình đầu tư kết thúc.
2.1.2. Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự toán đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay.
Tuy nhiên cần phải phân biệt hai trường hợp huy động, đó là huy động bộ phận và huy động toàn bộ.
Huy động bộ phận là việc huy động từng đối tượng, từng hạng mục xây dựng của công trình vào hoạt động ở những thời điểm khác nhau do thiết kế mỹ thuật.
Huy động toàn bộ là huy động cùng một lúc tất cả các đối tượng, hạng mục xây dựng không có khả năng phát huy tác dụng độc lập hoặc dự án không dự kiến cho phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và sẵn sàng sử dụng ngay.
Nói chung, đối với các công cuộc đầu tư quy mô lớn, có nhiều đối tượng, hạng mục xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập thì được áp dụng hình thức huy động bộ phận sau khi từng đối tượng, hạng mục đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, lắp đặt. Còn đối với các công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì áp dụng hình thức huy động toàn bộ khi tất cả các đối tượng, hạng mục công trình đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm và lắp đặt.
Các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư, chúng có thể được biểu hiện bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như số lượng các tài sản cố định được huy động (số lượng nhà ở, bệnh viện, cửa hàng, trường học, nhà máy…) Công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động (số căn hộ, số mét vuông nhà ở, số tấn than khai thác hàng năng của mỏ than, số mét vải dệt hàng năm của nhà máy dệt…) mức tiêu dùng nguyên, vật liệu trong một đơn vị thời gian (số tấn mía chế biến trong một ngày đêm của các nhà máy đường…)
Chỉ tiêu giá trị tài sản cố định được huy động tính theo giá dự toán hoặc giá trị thực tế tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng chúng trong công tác nghiên cứu kinh tế hay quản lý hoạt động đầu tư: Cụ thể giá trị dự toán thì được sử dụng để làm cơ sở tính toán giá trị thực tế của tài sản cố định, để lập kế hoạch về vốn đầu tư và tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Giá trị dự toán là cơ sở để tiến hành thanh quyết toán giữa chủ đầu tư và các đơn vị nhận thầu.
Còn giá trị thực tế của các tài sản cố định huy động được sử dụng để kiểm tra việc thực hiện kỷ luật tài chính, dự toán đối với các công cuộc đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, để ghi vào bảng cân đối tài sản cố định của cơ sở, là một cơ sở để tính mức khấu hao hàng năm, phục vụ công tác hạch toán kinh tế của cơ sở, đánh giá kết quả hoạt động tài chính của cơ sở.
Sử dụng chỉ tiêu giá trị cho phép xác định toàn bộ khối lượng tài sản cố định được huy động của toàn ngành công nghiệp cũng như tất cả các ngành khác, đánh giá tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch và sự biến động của chỉ tiêu này ở mọi cấp độ quản lý khác nhau.
* Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm.
Khi các tài sản cố định được huy động vào sử dụng, chúng đã làm gia tăng năng lực sản xuất, phục vụ cho nền kinh tế.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất, phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư. Năng lực sản xuất phục vụ được thể hiện ở công suất hoặc năng lực phát huy tác dụng của tài sản cố định.
Với sự gia tăng của năng lực sản xuất phục vụ do các tài sản cố định tạo ra, hoạt động đầu tư phát triển đã mang lại cho các doanh nghiệp mức gia tăng của sản lượng, doanh thu, mang lại cho các ngành, vùng và toàn bộ nền kinh tế mức tăng của giá trị sản xuất, mức tăng giá trị tăng thêm theo các ngành, mức tăng của tổng sản phẩm quốc nội cho toàn bộ nền kinh tế.
2.2. Hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp
Hiệu quả về mặt kinh tế
Các chỉ tiêu cơ bản thường được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư ở cấp độ ngành là:
Mức tăng của giá trị sản xuất so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu.
Mức tăng giá trị tăng thêm so với toàn bộ vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu cũ
Mức tăng của giá trị tăng thêm so với giá trị tài sản cố định huy động trong kỳ nghiên cứu của ngành công nghiệp của một nước
Suất đầu tư cần thiết để làm tăng thêm 1 đơn vị tổng sản phẩm quốc nội ngành công nghiệp
Hệ số huy động tài sản cố định
Hiệu quả về mặt xã hội của hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp
Các chỉ tiêu cơ bản được sử dụng để phản ánh hiệu quả xã hội của hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp là:
Số lao động có việc làm do đầu tư và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của ngành công nghiệp
Các tác động khác như: chi tiêu cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, cải thiện chất lượng hàng tiêu dùng và cơ cấu hàng tiêu dùng xã hội, cải thiện điều kiện làm việc và cải thiện môi trường sinh thái…
Mức giá trị gia tăng phân phối cho nhóm dân cư và vùng lãnh thổ tính trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng của thời kỳ nghiên cứu.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển công nghiệp
3.1. Tiềm năng và nguồn lực cho phát triển công nghiệp
Tiềm năng và các nguồn lực cho phát triển công nghiệp bao gồm: các loại tài nguyên thiên nhiên, dân số và lao động, sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Các loại tài nguyên thiên nhiên như: khoáng sản, lâm sản, thuỷ sản và các điều kiện tự nhiên (đất đai, song hồ, khí hậu, thời tiết…) hoặc trở thành đối tượng lao động để phát triển công nghiệp khai thác và chế biến, hoặc trở thành điều kiện tiền đề để xây dựng và phát triển một số ngành công nghiệp. Vì vậy, tài nguyên thiên nhiên đa dạng, trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận lợi sẽ cho phép đầu tư phát triển công nghiệp đạt được hiệu quả cao và là nền tảng để phát triển.
Nhìn chung, tài nguyên thiên nhiên của một địa phương, của một quốc gia có ảnh hưởng đến số lượng và cơ cấu đầu tư công nghiệp. Thông thường các địa phương nên xác định lợi thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên để có định hướng về đầu tư phát triển những ngành khai thác và chế biến những loại tài nguyên nhất định, tạo ra những sản phẩm chủ lực có lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
* Dân số và lao động.
Đây là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Bởi vì, quy mô và cơ cấu dân cư tạo thành thị trường tiêu thụ tại chỗ to lớn mà ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cần được phát triển mạnh mẽ để đáp ứng. Hơn nữa, trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp sử dụng kỹ thuật cao. Với những đặc trưng của mình, ngành công nghiệp đòi hỏi cao về tính kỷ luật, sự nhanh nhạy và trình độ ngày càng cao. Ngoài ra, lợi thế về nguồn nhân lực còn được thể hiện ở các ngành nghề thủ công của mỗi vùng. Việc đầu tư phát triển các ngành nghề này vừa thể hiện việc thực hiện phân công lao động tại chỗ ở nông thôn, vừa tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc dân tộc phục vụ xuất khẩu.
* Sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng.
Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của mỗi nước bao gồm mạng lưới giao thông vận tải, sản xuất và cung ứng điện năng, cấp thoát nước, thông tin liên lạc…Sự phát triển của hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp. Đó là điều kiện không thể thiếu để đảm bảo hoạt động đầu tư phát triển này có hiệu quả, khai thác các tiềm năng và lợi thế của nước. Thông thường thì đòi hỏi đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải đi trước để tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp.
3.2. Hệ thống luật pháp và chính sách
Hệ thống luật pháp sẽ tác động đến hoạt động đầu tư phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, Nhà nước cũng như các chính quyền địa phương không can thiệp trực tiếp vào quyết định đầu tư của các chủ thể kinh tế khác nhau, mà sử dụng hệ thống các công cụ chính sách, luật pháp và đòn bẩy kinh tế để hướng các chủ thể góp phần vào thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế. Điều đó thể hiện như sau:
Nhà nước hoạch định chiến lược, quy hoạch phát triển công nghiệp nhằm thực hiện hệ thống các mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Các chiến lược và quy hoạch này sẽ là định hướng phát triển ngành và định hướng đầu tư cho các chủ thể kinh tế. Một định hướng đúng sẽ thúc đẩy đầu tư công nghiệp và đảm bảo cho hoạt động này phát triển bền vững có hiệu quả.
Nhà nước ban hành hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách để khuyến khích, động viên hoặc tạo áp lực để các nhà đầu tư trong và ngoài nước vận động theo đúng quỹ đạo mà Nhà nước đã vạch ra. Hệ thống luật pháp và chính sách thông thoáng, ổn định và minh bạch sẽ có tác dụng kích thích các nhà đầu tư phát triển hoạt động đầu tư theo định hướng của Nhà nước. Ngược lại, hệ thống này không ổn định và không rõ ràng sẽ bóp nghẹt các ý tưởng đầu tư, định hướng Nhà nước đã vạch ra khó có thể thực hiện được.
3.3. Nhân tố tiến bộ khoa học công nghệ
Tiến bộ khoa học – công nghệ ảnh hưởng lớn đến phân bố sản xuất công nghiệp, tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho tổ chức hợp lý sản xuất công nghiệp.
Tiến bộ khoa học – công nghệ tạo điều kiện để hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp có hiệu quả cao vì nó cho phép sử dụng đầy đủ, tiết kiệm và hợp lý nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước.
Ngoài ra, tiến bộ khoa học – công nghệ thúc đẩy phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển công nghiệp, giảm bớt sự phụ thuộc vào tự nhiên, thậm chí cho phép phát triển công nghiệp ở ngay những vùng mà điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
3.4. Công tác khuyến công và xúc tiến đầu tư
Hoạt động khuyến công là những hoạt động khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ và tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sản xuất công nghiệp nông thôn nhằm mục tiêu động viên và huy động các nguồn lực trong nước và ngoài nước tham gia hoặc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất công nghiệp nông thôn và các dịch vụ khuyến công theo quy hoạch phát triển công nghiệp của cả nước. Hoạt động khuyến công cũng sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp nông thôn một cách bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện có hiệu quả lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Cùng với hoạt động khuyến công thì hoạt động xúc tiến đầu tư cũng giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì đây là hoạt động cung cấp thông tin đáng tin cậy cho các nhà đầu tư để họ có quyết định đúng khi khảo sát, thăm dò và lựa chọn địa điểm đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư giúp các chủ đầu tư rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng đưa ra quyết định chính xác. Bên cạnh đó, các dịch vụ tư vấn đầu tư sẽ giúp chủ đầu tư có thông tin về thị trường, về đội ngũ lao động cũng như thủ tục đăng ký đầu tư, tháo gỡ những khó khăn vướng mắc mà chủ đầu tư có thể gặp phải khi tiến hành hoạt động đầu tư.
3.5. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp
Đây là nhân tố sẽ tạo nên sức hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư vào ngành công nghiệp cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Rõ ràng rằng năng lực tăng trưởng kinh tế của ngành là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư có hiệu quả. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong thu hút vốn đầu tư: vốn đầu tư sử dụng càng có hiệu quả thì khả năng huy động nó càng lớn.
Trả lời