Ở bài viết này, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về trọng tài thương mại một cách chi tiết nhất. Bao gồm: Khái niệm, thẩm quyền xét xử của trọng tài, các loại trọng tài và những ưu việt của phương thức này.
1. Khái niệm về trọng tài thương mại
Trọng tài là quyền quyết định của một người thứ ba đối với một tranh chấp phát sinh. Trọng tài khác với trung gian và hoà giải ở chỗ trọng tài đưa ra phán quyết. Trọng tài là một định chế cử một tư nhân giải quyết sự bất hoà cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh chấp.
Như vậy, đặc điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là: trọng tài là một cá nhân – người ngoài toà án, được các bên thoả thuận lựa chọn, có thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các bên đương sự với nhau.
Như vậy, có thể hiểu trọng tài như sau: Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp mà theo đó hai hay nhiều bên tranh chấp giao cho một bên thứ ba đứng ra phân xử vụ tranh chấp và phán quyết của bên thứ ba này có giá trị chung thẩm đối với các bên đương sự.
Trọng tài thương mại là trọng tài có thẩm quyền xét xử các vụ tranh chấp trong lĩnh vực thương mại.
2. Thẩm quyền xét xử của trọng tài thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, việc lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của các bên đương sự. Trọng tài là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp kinh tế trong nền kinh tế thị trường, vì vậy, bất cứ một tranh chấp nào cũng có thể được đưa đến trọng tài nếu như có thỏa thuận của các bên. Cũng giống như tòa án, trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên đối với một vụ tranh chấp cụ thể trong kinh doanh quốc tế. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên trong vụ tranh chấp có tồn tại một thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận theo đó các bên đương sự nhất trí giao vụ tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh có liên quan đến hợp đồng cho một loại trọng tài cụ thể nào đó giải quyết.
Trọng tài là nội dung đầu tiên trong trình tự, thủ tục trọng tài. Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì sẽ không có những nội dung tiếp sau của trình tự, thủ tục trọng tài. Điều đó có nghĩa là, tố tụng trọng tài chỉ được hình thành trên cơ sở có một thỏa thuận trọng tài giữa các bên tranh chấp.
Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản dưới hình thức là một điều khoản nằm trong hợp đồng hoặc có thể là một văn bản thỏa thuận riêng (điều khoản bổ sung về thỏa thuận trọng tài). Khi nằm trong hợp đồng, thỏa thuận trọng tài thường có tên là Điều khoản trọng tài. Các bên hoàn tự do lựa chọn một tổ chức trọng tài để xét xử tranh chấp, nhưng sau khi đã được lựa chọn trong thỏa thuận trọng tài, thỏa thuận trọng tài sẽ ràng buộc các bên và trọng tài được lựa chọn trở thành cơ quan tài phán có thẩm quyền đối với vụ tranh chấp được chỉ định, không phụ thuộc vào sự phản đối về thẩm quyền của một trong các bên đã có thỏa thuận trọng tài. Trọng tài cũng có thẩm quyền xét xử nếu có Điều ước quốc tế ràng buộc các bên phải đưa tranh chấp ra giải quyết tại cơ quan trọng tài. Như vậy nếu không có thỏa thuận giữa các bên giao tranh chấp cho trọng tài thương mại giải quyết thì trọng tài không có thẩm quyền đối với tranh chấp đó. Từ đó có thể nói thẩm quyền xét xử của trọng tài là thẩm quyền được giao cho. Thỏa thuận trọng tài là cơ sở để tòa án một nước công nhận và cho thi hành ở nước mình phán quyết của trọng tài được tuyên ở nước ngoài. Thỏa thuận trọng tài sẽ bác bỏ thẩm quyền xét xử của tòa án với tranh chấp có liên quan. Thỏa thuận trọng tài sẽ giúp khẳng định giá trị pháp lý của phán quyết trọng tài: có giá trị chung thẩm đối với các bên đương sự.
Việc công nhận và đảm bảo hiệu lực của thỏa thuận trọng tài là hết sức cần thiết bởi một thỏa thuận trọng tài không những là cơ sở cho việc phát sinh một hoạt động trọng tài mà nó còn có ý nghĩa đối với hiệu lực của phán quyết trọng tài. Nếu các bên đã thỏa thuận chọn phương thức giải quyết bằng con đường trọng tài thì các bên phải có nghĩa vụ thực hiện thỏa thuận đó. Khi một trong các bên không thực hiện nghĩa vụ này thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án giúp đỡ để buộc bên cùng thỏa thuận với mình phải chấp hành thỏa thuận trọng tài. Trong mọi trường hợp, các bên không thể đưa ngay vụ việc ra tòa án giải quyết nếu vẫn đang tồn tại một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực. Các bên chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại tòa án khi không còn tồn tại một thỏa thuận trọng tài bởi quyết định hủy bỏ của tòa án hoặc trong trường hợp cả hai bên cùng không chấp nhận thỏa thuận trọng tài.
Trên thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới rất chú trọng đến việc công nhận và có biện pháp bảo đảm hiệu lực của một thỏa thuận trọng tài. Điều đó cho phép đảm bảo trật tự và ổn định trong giải quyết tranh chấp, đảm bảo lợi ích của các bên tham gia vào quan hệ kinh tế.
Như trên đã nói, thỏa thuận trọng tài thường được thể hiện dưới dạng một điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên, không nên lẫn lộn giữa điều khoản trọng tài và hợp đồng chính mà nó dẫn chiếu tới vì hai loại thỏa thuận này có đối tượng pháp lý hoàn toàn khác nhau. Điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên còn hợp đồng chính quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Quan điểm chung của các nước hiện nay là điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng chính. Điều khoản trọng tài không bị tác động bởi những lý do vô hiệu của hợp đồng chính. Tức là việc vô hiệu của hợp đồng chính không thể ảnh hưởng tới quá trình tố tụng của trọng tài. Quan điểm này được cụ thể hóa trong nhiều văn bản luật về trọng tài, ví dụ như Khoản 1 Điều 16 Luật mẫu của UNCITRAL quy định: “Quyết định của ủy ban trọng tài về hợp đồng vô hiệu không làm cho điều khoản trọng tài bị vô hiệu một cách tương ứng”. Điều 11 Pháp lệnh trọng tài Thương mại 2003 của Việt Nam quy định rằng: “Điều khoản trọng tài tồn tại độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng tới hiệu lực của điều khoản trọng tài”. Tuy nhiên, có những lý do tác động đến sự vô hiệu của cả hai thỏa thuận này, ví dụ như chủ thể kí kết hợp đồng không đủ năng lực hành vi dân sự hay vi phạm nguyên tắc tự nguyện khi ký kết.
Trọng tài còn có thể quyết định giải quyết tranh chấp hay không, tức là trọng tài còn có thẩm quyền về thẩm quyền của mình. Ngoài việc chấp nhận xét xử tranh chấp ra, trọng tài còn có thể từ chối không xét xử vụ tranh chấp mặc dù hai bên có thỏa thuận đưa tranh chấp ra xét xử tại cơ quan trọng tài. Đây có thể là những trường hợp trọng tài xét thấy rằng tranh chấp đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu do pháp luật của một trong hai bên tranh chấp mà họ không biết.
3. Các loại trọng tài thương mại
Trên thế giới có rất nhiều tổ chức trọng tài với các phương thức hoạt động rất đa dạng, do vậy có rất nhiều cách phân chia. Có quan điểm phân chia các trung tâm trọng tài có thẩm quyền chuyên trách mà ở đó trọng tài thẩm quyền chuyên trách thường được thành lập theo sáng kiến của các Hiệp hội hay các Nghiệp đoàn để giải quyết tranh chấp thuộc chuyên môn của các Hiệp hội hay Nghiệp đoàn đó, khác với các trung tâm trọng tài có thẩm quyền chung mà hoạt động không giới hạn trong những tranh chấp có tính nghiệp đoàn, có thể đảm nhận trọng tài về mọi loại tranh chấp.
Để giải quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế, chủ yếu có hai loại trọng tài: Trọng tài vụ việc (Ad-hoc) và trọng tài thường trực hay còn gọi là trọng tài quy chế.
3.1. Trọng tài Ad-hoc
Là loại trọng tài do hai bên lựa chọn ra để giải quyết tranh chấp, giải quyết xong thì tự động giải tán. Trọng tài Ad-hoc chỉ có nghĩa vụ giải quyết một vụ tranh chấp nhất định. Trọng tài Ad-hoc không có địa điểm xét xử cụ thể mà do hai bên đương sự hoàn toàn quyết định sao cho thuận tiện nhất. Trọng tài Ad-hoc không có quy chế trọng tài, không phụ thuộc vào nguyên tắc xét xử của bất kỳ nước nào, thủ tục giải quyết tranh chấp của trọng tài Ad-hoc rất linh hoạt, do chính trọng tài viên được chọn ra quyết định căn cứ vào thực tiễn vụ tranh chấp. Trọng tài Ad-hoc thường hoàn toàn là một quá trình tư nhân nên do đó rất kín đáo và linh hoạt trong việc vận dụng quy tắc xét xử. Thông thường các bên sẽ thống nhất chọn ra một trọng tài viên duy nhất cho nên hai bên dễ đi đến thỏa thuận chung hơn và chi phí cho trọng tài sẽ đỡ tốn kém hơn. Tuy nhiên, khó khăn của trọng tài Ad-hoc là nó hoàn toàn phụ thuộc vào sự hợp tác của hai bên vì nếu một bên cố tình không chấp nhận bất cứ trọng tài viên duy nhất nào do phía bên kia đưa ra sẽ khiến quá trình xét xử gặp khó khăn và kéo dài. Chính vì vậy trọng tài Ad-hoc trên thực tế thường chỉ phù hợp với những tranh chấp giữa các bên đương sự có am hiểu về pháp luật, dày dặn trên thương trường và có kinh nghiệm tranh tụng.
Trọng tài Ad-hoc là loại hình có thể thích hợp ở những nước có nền sản xuất nhỏ, nhất là ở nước ta, khi mà các quan hệ sản xuất nhỏ còn phổ biến, các tranh chấp xảy ra thường có giá trị không quá lớn. Hơn nữa do sự trải dài những vùng lãnh thổ khác nhau và chính sách của nhà nước về thành lập và hoạt động của các tổ chức trọng tài, hầu hết các tổ chức trọng tài thường trực đều nằm ở cá thành phố lớn. Do vậy, việc quan tâm đến loại hình trọng tài Ad-hoc, khai thác những ưu điểm của bản thân loại hình này trong giải quyết tranh chấp kinh tế là cần thiết. Mặt khác, dưới góc độ truyền thống, trọng tài Ad-hoc là loại hình gần gũi với truyền thống sinh hoạt văn hóa của dân tộc ta. Bởi trong thực tế, trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường gặp những trường hợp “trọng tài tự nguyện” để dàn xếp những vụ tranh chấp dân sự, kinh tế nhỏ trong dân. Đây chính là nền tảng xã hội khiến trọng tài Ad-hoc cần được duy trì và tiếp tục phát triển. Pháp lệnh trọng tài Thương mại Việt Nam có hiệu lực thi hành từ ngày 10/07/2003 đã đưa ra quy định về loại hình trọng tài này ở Điều 26, chính thức công nhận loại hình này và đồng thời cũng đã đưa ra được giải pháp đối với hạn chế nêu trên của trọng tài Ad-hoc.
3.2. Trọng tài quy chế (hay còn lại là trọng tài thường trực)
Một số nét về trọng tài thường trực
Khác với trọng tài Ad-hoc, trọng tài quy chế là loại trọng tài được thành lập và hoạt động thường xuyên, có trụ sở cố định và có cơ chế hoạt động rõ ràng. Các nguyên tắc hoạt động của trọng tài quy chế dựa trên những đặc trưng nhất định của tổ chức và thể hiện tính riêng biệt của tổ chức. Để giải quyết một vụ tranh chấp các bên có thể dựa vào danh sách trọng tài viên của tổ chức để lựa chọn trọng tài viên cho mình.
Cơ cấu tổ chức của trọng tài thường trực bao gồm:
Bộ phận thường trực còn gọi là bộ máy giúp việc
Các hội đồng trọng tài (thường được thành lập khi có vụ việc yêu cầu giải quyết)
Bộ máy giúp việc của trọng tài thường trực bao gồm: trụ sở, nhân viên chuyên trách, các phương tiện, cơ sở vật chất – kỹ thuật khác. Tùy thuộc vào đặc điểm, tổ chức của mỗi tổ chức trọng tài thường trực mà ở đó người ta sẽ xây dựng bộ máy giúp việc lớn hay nhỏ. Bộ máy giúp việc này có thể rất lớn, chẳng hạn như bộ máy giúp việc của Hiệp hội trọng tài Mỹ (American Abitration Association) bao gồm: đoàn chủ tịch, ban điều hành, thư viện quốc tế và các phòng hội họp, các chi nhánh ở 42 thành phố với 350 nhân viên giúp việc. Trong cơ cấu trọng tài thường trực, hạt nhân quan trọng nhất là các trọng tài viên bởi lẽ uy tín của tổ chức chủ yếu là thông qua uy tín chất lượng công tác của các trọng tài viên. Do vậy, điều đầu tiên là phải xây dựng cho được đội ngũ trọng tài viên mạnh về chất lượng, đủ về số lượng. Thông thường trọng tài viên phải là những chuyên gia giỏi thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau vì hội đồng trọng tài được thành lập trên cơ sở danh sách những trọng tài viên này.
Trọng tài thường trực có thể được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài nằm bên cạnh Phòng thương mại, hoặc dưới dạng công ty, chịu sự điều chỉnh của luật công ty hay dưới dạng hiệp hội theo luật điều chỉnh về hiệp hội…
Về tên gọi, các tổ chức trọng tài thường trực có thể có tên gọi khác nhau và mỗi tên gọi thường phản ánh đặc tính của tổ chức trọng tài đó. Chẳng hạn “hiệp hội trọng tài”, ví dụ “hiệp hội trọng tài Mỹ” phản ánh không chỉ tên gọi mà còn mang ý nghĩa về tính chất tổ chức của hiệp hội khác với loại hình công ty.
Các tổ chức trọng tài độc lập với nhau và không có quan hệ gì với nhau trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế, không phụ thuộc vào nhau và chúng đều bình đẳng trước sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Việc lựa chọn tổ chức trọng tài nào cũng như trọng tài viên nào hoàn toàn phụ thuộc vào sự lựa chọn của các bên.
Điểm thuận lợi của trọng tài quy chế là trọng tài quy chế có quy tắc xét xử công khai. Các quy tắc này thường được soạn thảo và sửa đổi bởi những chuyên gia giàu kinh nghiệm nên nó đảm bảo tính đúng đắn và hợp lý. Việc tập hợp các quy chế của trọng tài thường trực tạo điều kiện thuận lợi cho các bên cân nhắc trước các vấn đề như chọn, cử, thay đổi, bãi miễn trọng tài viên, vấn đề lệ phí… Ngoài ra, điểm thuận lợi của trọng tài quy chế còn ở tính chuyên nghiệp và không ngừng được đào tạo của các trọng tài viên của trung tâm trọng tài.
Dưới đây chúng ta tìm hiểu về một số tổ chức trọng tài thường trực tiêu biểu.
Một số tổ chức trọng tài tiêu biểu trên thế giới
Tòa án trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng Thương mại Quốc tế ICC
Phòng Thương mại Quốc tế – ICC là một tổ chức phi chính phủ phục vụ hoạt động kinh doanh trên thế giới. ICC có tới 10.000 tổ chức kinh doanh thành viên trên thế giới với quyền lợi quốc tế ở trên 100 nước. Các ủy ban Quốc tế hay Hội đồng quốc gia của ICC hoạt động ở 59 nước. Các chức năng của ICC có thể là:
Đại diện cho cộng đồng kinh doanh trên thế giới ở cấp độ quốc gia và quốc tế
Khuyến khích hoạt động thương mại và đầu tư trên thế giới
Đưa ra những thuật ngữ, hướng dẫn và làm công tác tư vấn, cung cấp các dịch vụ thiết thực cho kinh doanh
Tòa án Trọng tài Quốc tế được ICC thành lập năm 1923 và tính đến năm 1994 đã giải quyết được 7.500 vụ việc. Nó được xác định là cơ quan Trọng tài Quốc tế đặt bên cạnh Phòng Thương mại Quốc tế. Các thành viên của Tòa án Trọng tài do Hội đồng Phòng Thương mại Quốc tế quyết định. Chức năng của Tòa án là giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh có tính chất quốc tế bằng phương thức trọng tài. Tòa án tự quy định quy tắc hoạt động của mình và có văn phòng trụ sở tại Phòng Thương mại Quốc tế.
Trung tâm Quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tư (ICSID)
ICSID là một cơ quan phi tài chính của Ngân hàng thế giới, viết tắt của International Center for Settlement of Investment Disputes. ICSID được thành lập trên cơ sở Công ước Washington có hiệu lực ngày 14/10/1966. ICSID hòa giải và xét xử bằng trọng tài tất cả các tranh chấp giữa các nhà đầu tư và nhà nước sở tại. Tổ chức này tự đặt ra quy chế riêng cho mình. Việc tiến hành xét xử diễn ra tại Washington D.C., trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Việc thành lập trung tâm trọng tài này là để khuyến khích tư nhân đầu tư vào các nước đang phát triển, gạt bỏ những e ngại về quốc hữu hóa của chính phủ đối với các công trình đầu tư.
Trung tâm có một Hội đồng quản trị, một Ban thư ký và hai nhóm chuyên gia. Hội đồng quản trị bao gồm đại diện của nhà nước thành viên tham gia Công ước. Hội đồng có trách nhiệm soạn thảo quy chế và giám sát sự hoạt động của công ty.
Khi đã tự nguyện giải quyết bằng trọng tài ICSID thì vụ tranh chấp không thể giải quyết bằng Tòa án khác cũng như nhà đầu tư không thể yêu cầu Nhà nước họ bảo vệ bằng con đường ngoại giao. Quyết định của Tòa án Trọng tài ICSID có hiệu lực bắt buộc với các bên, song không phải là chung thẩm. Quyết định này có thể bị xem xét phúc thẩm bằng hội đồng Ad-hoc, có thẩm quyền tuyên bố một quyết định đã tuyên là vô hiệu và đưa ra phán quyết mới có hiệu lực thi hành.
Viện Trọng tài Thụy Điển (Viện Trọng tài Stockholm)
Tổ chức trọng tài thường trực ở Thụy Điển do Phòng Thương mại thành lập. Tổ chức trọng tài thương mại Stockholm do Phòng thương mại Stockholm thành lập là một tổ chức trọng tài thương mại hàng đầu trên thế giới được thành lập từ năm 1917. Đến năm 1949 Tổ chức này được xây dựng thành cơ quan độc lập của Phòng thương mại Stockholm. Hiện nay, Tổ chức trọng tài này được sử dụng ngày càng nhiều cho việc giải quyết tranh chấp ở những nước thứ ba. Quyết định của hội đồng trọng tài có giá trị chung thẩm và không bị Phòng thương mại Thụy Điển xem xét lại. Ban trọng tài gồm 3 thành viên do ủy ban điều hành Phòng thương mại Thụy Điển chọn, có nhiệm kỳ 3 năm. Trưởng ban là người có kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp. Các thành viên khác là những luật sư có kinh nghiệm và được giới kinh doanh tín nhiệm.
Quá trình trọng tài được tiến hành khi có đơn bằng văn bản đề nghị giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong đó có ghi rõ các bên có yêu cầu giải quyết bằng trọng tài, nội dung tranh chấp và yêu cầu trọng tài đưa ra phán quyết. Trọng tài sẽ đưa ra phán quyết trong vòng một năm.
Hiệp hội trọng tài Mỹ
Hiệp hội trọng tài Mỹ (American Abitration Association – AAA) giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực thương mại trên cơ sở Luật trọng tài Liên bang năm 1987.
AAA có các trọng tài viên từ nhiều quốc tịch khác nhau và có kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh quốc tế. Khi quyết định trọng tài viên để giải quyết các vụ tranh chấp trong thương mại quốc tế, AAA yêu cầu các trọng tài viên phải có quốc tịch khác với quốc tịch của nguyên đơn (bên yêu cầu giải quyết tranh chấp), trừ trường hợp các bên tranh chấp có thỏa thuận khác bằng văn bản. Trong trường hợp các bên tranh chấp khước từ trọng tài viên hoặc khước từ hội đồng trọng tài, AAA sẽ bổ nhiệm một hội đồng đặc biệt để giải quyết gồm ba người, trong đó phần lớn các trọng tài viên có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên tranh chấp. Tiêu chuẩn đạo đức của trọng tài viên do AAA quy định là một trong những căn cứ chủ yếu để các bên tranh chấp xem xét trước khi khước từ trọng tài viên.
AAA không có biểu mẫu về phí trọng tài, do vậy, phí trọng tài thường được tính trên cơ sở trị giá của từng vụ việc cụ thể. Thông tin về quá trình trọng tài sẽ được thực hiện thông qua ban điều hành trọng tài, trừ lúc xét xử.
Trọng tài thương mại Đức
Ở Đức có 6 tổ chức trọng tài thường xuyên, gồm Ban thư ký điều hành và các trọng tài viên kiêm chức. Tố tụng trọng tài về cơ bản phải tuân theo quy tắc tố tụng dân sự, tuy nhiên, có đơn giản, nhanh chóng và đỡ tốn phí hơn. Quyết định của trọng tài được các bên tự nguyện thi hành. Nếu một bên không tự nguyện thi hành, theo đề nghị của bên kia, trọng tài có thể ra quyết định cưỡng chế.
Trong trường hợp trọng tài vi phạm luật tố tụng, các bên có quyền khiếu nại lên tòa án để hủy quyết định trọng tài và tiến hành xét xử lại theo trình tự tố tụng dân sự. Tòa án có thẩm quyền cưỡng chế hoặc hủy quyết định của trọng tài là Tòa án hoặc Tòa án thương mại của Tòa án cấp tỉnh.
Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông
Trung tâm Trọng tài Quốc tế Hồng Kông được thành lập năm 1985 bởi một nhóm nhà kinh doanh hàng đầu và các nhà chuyên môn ở Hồng Kông nhằm tập trung giải quyết các tranh chấp thương mại trong khu vực Châu Á. Trung tâm trọng tài này được tài trợ bởi Hội đồng Kinh doanh và Chính phủ Hồng Kông, là một tổ chức phi lợi nhuận.
Ngôn ngữ sử dụng trong giải quyết tranh chấp tại Trung tâm này thường là tiếng Anh và tiếng Trung. Mọi tranh chấp cũng có thể được giải quyết bằng bất kỳ ngôn ngữ nào do hai bên lựa chọn. Quyết định của trọng tài có thể được dịch ra bất kỳ thứ tiếng nào mà các bên đã chọn.
Mọi tranh chấp, tranh cãi hay khiếu nại phát sinh hoặc liên quan tới hợp đồng sẽ được giải quyết bằng trọng tài theo luật trọng tài UNCITRAL. Nếu các bên không muốn áp dụng luật của UNCITRAL thì có thể sử dụng Luật Hồng Kông. Thể chế trọng tài nội địa của Hồng Kông dựa trên cơ sở của Luật Anh.
4. Những ưu việt của việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế bằng trọng tài
4.1. Tính chung thẩm và hiệu lực của phán quyết trọng tài
Nếu như trong tố tụng tòa án, các bên có thể kháng cáo hoặc kháng nghị thì trong tố tụng trọng tài, phán quyết của trọng tài bao giờ cũng là chung thẩm. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tòa án. Các quyết định của trọng tài luôn luôn có hiệu lực thi hành và các bên đương sự không có quyền kháng cáo. Nhìn trên phương diện quốc tế, bản án của tòa án khó đạt được sự công nhận quốc tế. Thông thường, bản án của tòa án để được công nhận tại một quốc gia khác phải thông qua một hiệp định song phương ký giữa hai quốc gia theo những quy tắc rất nghiêm ngặt. Ngược lại, quyết định của trọng tài dễ dàng đạt được sự công nhận quốc tế thông qua một số công ước mà đặc biệt là Công ước New York năm 1958 về Công nhận và Thi hành các phán quyết của trọng tài nước ngoài. Hiện tại có khoảng 130 quốc gia là thành viên của Công ước New York và Việt Nam cũng đã tham gia Công ước này vào năm 1995.
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh chí tối cao và quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng quyết định của người đó. Trong trường hợp một bên không tự nguyện thi hành phán quyết của trọng tài thì bên kia có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định cưỡng chế thi hành. Trước khi ra quyết định công nhận và cưỡng chế thi hành, tóa án chỉ kiểm tra tính hợp pháp của phán quyết trọng tài và xem xét quá trình tố tụng có đúng theo nguyên tắc tố tụng trọng tài và tuân theo luật hay không. Nếu đúng thì tòa án sẽ ra quyết định công nhận và cưỡng chế thi hành, còn nếu sai thì tòa án có quyền không công nhận phán quyết và không cho thi hành phán quyết.
4.2. Tính bí mật trong giải quyết tranh chấp
Trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phi chính phủ, việc tiến hành tố tụng trọng tài do các bên tự lựa chọn, có thể tiến hành công khai hoặc bí mật. Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong môi trường tự do cạnh tranh, việc bảo vệ các bí mật trong sản xuất kinh doanh và giữ uy tín của các doanh nghiệp trên thương trường là vấn đề sống còn của các nhà kinh doanh, góp phần tạo sức mạnh cho các doanh nghiệp có thể giành thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, nếu trong quá trình tham gia vào các quan hệ kinh tế mà phát sinh tranh chấp, các doanh nghiệp, các nhà kinh doanh đều mong muốn việc giải quyết tranh chấp đó được tiến hành một cách kín đáo, giải quyết được tranh chấp mà không làm ảnh hưởng tới uy tín.
Do vậy, việc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp của trọng tài trở thành nguyên tắc được thể hiện trong hầu hết các quy tắc tố tụng của các tổ chức trọng tài.
Theo nguyên tắc này, các buổi xét xử của trọng tài trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận của các bên có thể tiến hành ở địa điểm mà ngoài thành viên và các bên đương sự ra thì những người không có trách nhiệm hoặc không có liên quan không được có mặt. Trọng tài viên phải có trách nhiệm đảm bảo bí mật mọi vấn đề liên quan đến các bên mà mình biết được do tiến hành giải quyết vụ việc, không được tiết lộ cho bất cứ ai. Quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài ra quyết định sẽ không được công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu khác. Quyết định của trọng tài chỉ được phép công bố công khai nếu các bên đồng ý. Có thể nói, nguyên tắc này hoàn toàn đối lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án. Đây cũng chính là ưu điểm lớn của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
4.3. Tính linh hoạt trong giải quyết tranh chấp
Tự nguyện và bình đẳng giữa các bên tranh chấp là nguyên tắc cốt lõi trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Sự hình thành trọng tài là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng giữa các bên làm cho giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có tính linh hoạt. Có thể thấy tính linh hoạt của phương thức giải quyết tranh chấp này thông qua những điểm sau: Các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù hợp trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các bên mà không có sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Cũng trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài viên mình tín nhiệm, tin tưởng có thể giải quyết tốt những tranh chấp giữa họ. Hơn nữa, các bên có thể chọn địa điểm tiến hành trọng tài mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ kiện hay ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài. Trong quá trình tham gia tranh tụng tại trọng tài, các bên vẫn có thể tự thương lượng để đạt đến thỏa thuận nhằm thu xếp những bất đồng đã xảy ra và trọng tài luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên.
Trên cơ sở tự nguyện, các bên tham gia tố tụng luôn được bình đẳng với nhau trong việc lựa chọn hoặc bãi miễn trọng tài viên, trong việc lựa chọn địa điểm tiến hành tố tụng, trong việc đưa đơn yêu cầu và đơn biện minh đối với đơn yêu cầu của phía bên kia, cũng như mọi chứng cứ tài liệu khác mà các bên cho là cần thiết để chứng minh hay bác bỏ đơn yêu cầu của phía bên kia, trong việc nhận thông tin từ phía trọng tài và phía bên kia. Tất cả các tài liệu, thông tin do một bên cung cấp cho trọng tài đều sẽ được trọng tài thông báo cho bên kia. Mọi biện pháp, quyết định của trọng tài tiến hành trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp đều phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp. Có như vậy việc giải quyết tranh chấp mới đạt được kết quả và quyết định của trọng tài mới được các bên tự nguyện chấp hành.
Khi đưa tranh chấp ra trọng tài xét xử thì một vấn đề được đặt ra là áp dụng luật nào để giải quyết. Việc xác định luật áp dụng trong xét xử trọng tài được xem xét ở hai vấn đề. Đó là việc xác định luật áp dụng để xét xử đối với quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên tranh chấp – luật nội dung và việc xác định luật áp dụng cho quá trình tố tụng trọng tài – luật tố tụng. Thực tế cho thấy hiện tượng xung đột luật luôn xuất hiện. Trong đó, luật của rất nhiều nước liên quan tới quan hệ của các bên đương sự cùng có khả năng điều chỉnh như luật của nước do các bên đương sự mang quốc tịch hoặc cư trú, luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng. Vậy luật nào sẽ được lựa và dựa trên cơ sở nào?
Luật tố tụng
Việc xác định luật trong tố tụng trọng tài bị chi phối bởi nguyên tắc tự do thỏa thuận và nguyên tắc nơi xét xử của trọng tài.
Khi giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại tòa án thì tòa án có quyền tiến hành mọi thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng nước mình. Việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài lại khác, trong nhiều trường hợp, trọng tài không nhất thiết phải tuân thủ theo các quy định về thủ tục tố tụng trọng tài của nước mà trọng tài tiến hành xét xử. Bởi nguyên tắc thỏa thuận của hai bên chủ thể trong hợp đồng thương mại quốc tế không những chi phối việc chọn luật để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn chi phối cả việc thành lập hoặc chọn trọng tài, trong đó bao gồm cả việc đưa ra những nguyên tắc xét xử hoặc chọn luật tố tụng cho quá trình xét xử của trọng tài. Trên thực tế, khi thỏa thuận về trọng tài để xét xử tranh chấp, các bên có thể chọn một tổ chức trọng tài thường trực (hay trọng tài quy chế) hoặc cũng có thể thỏa thuận thành lập trọng tài Ad-hoc. Trong mỗi trường hợp chọn hình thức trọng tài thì việc chọn luật áp dụng cho tố tụng trọng tài cũng khác nhau, đó là:
Nếu các bên thống nhất chọn một tổ chức trọng tài quy chế và chọn một quy tắc trọng tài thì quy tắc trọng tài đó sẽ được áp dụng cho tố tụng trọng tài.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận chọn trọng tài quy chế cụ thể để xét xử mà không quy định quy tắc tố tụng thì đồng nghĩa với việc các bên thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài quy chế đó.
Trong trường hợp các bên thỏa thuận thành lập trọng tài Ad-hoc thì việc xác định luật áp dụng cho tố tụng trọng tài sẽ do các bên tự quyết định.
Các bên có thể thỏa thuận xây dựng nên các nguyên tắc một cách độc lập và cũng có thể chọn các quy định về tố tụng của một tổ chức trọng tài thường trực nào đó để áp dụng cho trọng tài mà các bên đã lập ra. Trong trường hợp các bên chọn các quy định của tổ chức trọng tài thường trực nào đó thì các quy định này có thể được các bên thỏa thuận giữ nguyên hoặc sửa đổi, bổ sung trước khi áp dụng. Nếu không có thỏa thuận chọn quy tắc tố tụng thì trọng tài Ad-hoc sẽ áp dụng linh hoạt một thủ tục tố tụng nhưng phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên.
Luật tố tụng trong trọng tài không chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn hình thức trọng tài như đã đề cập ở trên mà còn phụ thuộc nơi xét xử của trọng tài, tức là luật nơi trọng tài tiến hành xét xử tranh chấp sẽ chi phối hoạt động tố tụng của trọng tài. Nói cách khác, trọng tài tiến hành xét xử ở đâu thì sẽ áp dụng luật tố tụng trọng tài ở nơi đó. Nguyên tắc này được áp dụng để xác định luật tố tụng của trọng tài trong trường hợp nếu các bên không thỏa thuận chọn luật tố tụng. Do đó, như đã trình bày ở trên, việc áp dụng nguyên tắc này để xác định luật tố tụng thường xảy ra trong trường hợp các bên thành lập trọng tài Ad-hoc.
Như vậy việc chọn luật tố tụng trọng tài trước tiên phải tuân thủ theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, nếu các bên không thỏa thuận thì nguyên tắc luật nơi xét xử sẽ được áp dụng để xác định luật điều chỉnh tố tụng trọng tài.
Luật nội dung
Luật áp dụng để xét xử nội dung tranh chấp là luật mà trọng tài dùng để xem xét việc thực hiện nghĩa vụ của các bên tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật này được gọi là luật áp dụng cho hợp đồng. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn, luật áp dụng cho hợp đồng được hình thành trên các cơ sở pháp lý sau đây:
Thứ nhất là luật do các bên lựa chọn.
Về nguyên tắc, luật do các bên lựa chọn là luật do các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng hoặc được quy định trong một văn bản riêng biệt do hai bên ký.
Trong quá trình giao kết hợp đồng, ngoài những điều khoản chính của hợp đồng như đối tượng của hợp đồng, giá cả, phương thức thanh toán… các bên thường thỏa thuận thêm điều khoản về luật áp dụng. Luật được chọn là do các bên tự do thỏa thuận. Điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng không chỉ là cơ sở pháp lý ràng buộc quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên chủ thể của hợp đồng đối với nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng mà nó còn là cơ sở pháp lý để cơ quan xét xử áp dụng nhằm xác định trách nhiệm của các bên nếu sau này hợp đồng bị vi phạm. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp (nếu có) xảy ra và làm tăng thêm trách nhiệm với nhau, đôi khi trong quá trình giao kết hợp đồng các bên quy định thêm luật áp dụng cho hợp đồng trong điều khoản trọng tài vì về mặt pháp lý, thỏa thuận trọng tài được xem là giao kết độc lập với hợp đồng thương mại của các bên. Do đó, trong trường hợp mặc dù hợp đồng đã được thực hiện hoặc bị vi phạm, thậm chí bị vô hiệu thì điều khoản về trọng tài của hợp đồng vẫn còn nguyên giá trị pháp lý. Như vậy, việc xây dựng thỏa thuận trọng tài mà trong đó bao gồm cả việc chọn luật áp dụng sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc để bên vi phạm bảo vệ được quyền lợi của mình trước cơ quan xét xử.
Thứ hai là luật được quy định trong các Điều ước Quốc tế có liên quan. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận chọn luật áp dụng cho hợp đồng và những điều khoản trong hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận không đủ cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp thì luật áp dụng sẽ là luật được quy định trong các Điều ước quốc tế có liên quan. Công ước La-Hay năm 1955 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế tại mục 1 Điều 3 quy định: “Nếu hợp đồng không quy định thì luật áp dụng cho hợp đồng là luật của nước người bán có trụ sở kinh doanh vào lúc ký kết hợp đồng”. Tuy nhiên, theo mục 2 Điều 3 Công ước này thì “luật áp dụng là luật nước người mua khi việc đàm phán và ký kết hợp đồng hoặc nghĩa vụ giao hàng được thực hiện ở nước người mua”. Khoản 1 Điều 4 Công ước Rpmma 1980 cũng quy định rằng: “Nếu các bên không lựa chọn luật áp dụng thì luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng sẽ được áp dụng”. Tuy nhiên, việc hiểu thế nào là “luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng” lại hoàn toàn do Hội đồng trọng tài quyết định.
Thứ ba là luật do Hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp quyết định.
Nếu trong hợp đồng không quy định luật áp dụng, giữa hai nước của hai bên tranh chấp cũng không có Điều ước quốc tế có liên quan nào quy định luật áp dụng cho hợp đồng thì luật áp dụng cho hợp đồng để giải quyết tranh chấp sẽ do chính hội đồng trọng tài xét xử tranh chấp đó quyết định. Thẩm quyền quyết định luật áp dụng để giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài được ghi rõ trong Điều VII của Công ước Giơnevơ về Trọng tài Thương mại quốc tế năm 1961, Điều 33 đoạn 1 và 3 Quy tắc trọng tài quốc tế UNCITRAL. Hội đồng trọng tài có thể căn cứ vào tiền lệ xét xử để quyết định luật áp dụng. Nhìn chung luật mà hội đồng trọng tài thường quyết định dùng để giải quyết tranh chấp là luật nước người bán, hoặc luật nước người mua hoặc luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng. Luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng có thể là luật của nước mà các bên tranh chấp mang quốc tịch hoặc cư trú, luật nơi ký kết hợp đồng, luật nơi có tài sản là đối tượng tranh chấp của hợp đồng… Việc quyết định luật nào là luật có quan hệ gắn bó với hợp đồng để làm cơ sở xét xử tranh chấp sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào lập luận của hội đồng trọng tài. Cơ sở cho những lập luận này dựa vào những chứng cứ, tình huống của từng vụ kiện cụ thể, trên nguyên tắc tôn trọng nguyện vọng của các bên và bảo vệ các nguyên tắc thương mại quốc tế, trong đó quyền lợi của các bên, các điều khoản trong hợp đồng mà các bên thỏa thuận phải được bảo vệ, nguyên tắc trung thực trong thương mại, nguyên tắc tôn trọng giá trị đạo đức… phải được tôn trọng.
Ngoài ra trọng tài phải căn cứ vào các quy tắc nêu trong bản dự thảo nguyên tắc về luật áp dụng đối với hợp đồng quốc tế, một công trình nghiên cứu của ủy ban Thương mại quốc tế của ICC đưa ra tại hội nghị Stockholm ngày 09/10/1981.
Tóm lại, vấn đề chọn luật áp dụng trong xét xử của trọng tài là một trong những vấn đề pháp lý quan trọng. Việc chọn luật để trọng tài áp dụng cho việc xét xử tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên và luật tố tụng trọng tài đều trước hết tôn trọng quyền tự do thỏa thuận giữa các bên, mặc dù trên thực tế việc lựa chọn luật tố tụng cho trọng tài thường trực còn hạn chế. Bên cạnh việc giống nhau trong việc cùng áp dụng nguyên tắc tự do thỏa thuận chọn luật áp dụng, việc chọn luật cho xét xử nội dung tranh chấp và chọn luật cho tố tụng trọng tài có sự khác nhau ở chỗ: nếu chọn luật áp dụng cho xét xử nội dung vụ tranh chấp bị chi phối bởi nguyên tắc luật có quan hệ gần gũi với hợp đồng thì việc chọn luật cho tố tụng trọng tài phụ thuộc vào nơi xét xử của trọng tài. Việc tôn trọng những nguyên tắc chọn luật cho trọng tài trên đây đã làm cho hoạt động của trọng tài thương mại đảm bảo tính công bằng và hợp lý trong việc xét xử tranh chấp trong kinh doanh quốc tế.
4.4. Tính liên tục của việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Từ khi trọng tài nhận được đơn kiện của nguyên đơn thì hội đồng trọng tài sẽ theo vụ kiện từ đầu đến cuối trừ khi các bên đương sự có yêu cầu thay đổi thành viên của Hội đồng trọng tài. Do đó, các trọng tài viên nắm rõ được các tình tiết của vụ tranh chấp, việc giải quyết tranh chấp được tiến hành thuận lợi hơn. Điều này khác hẳn với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án. Do vậy thời gian trung bình để giải quyết một vụ kiện bằng trọng tài bao giờ cũng ngắn hơn nhiều so với giải quyết tranh chấp tại tòa án.
4.5. Tiết kiệm thời gian
Do xét xử bằng trọng tài chỉ qua một cấp và trọng tài theo vụ kiện liên tục làm cho các bên tranh chấp tiết kiệm được thời gian. Một vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại VIAC không bao giờ phải giải quyết kéo dài quá 6 tháng trong khi đó việc giải quyết tranh chấp tại tòa án kéo dài vài năm là một chuyện bình thường. Việc tiết kiệm thời gian trong thời đại ngày nay mang ý nghĩa lớn trong việc giảm thiểu các rủi ro và tiết kiệm chi phí.
4.6. Giúp các bên duy trì được mối quan hệ
Tính ưu việt này của xét xử tranh chấp bằng trọng tài xuất phát từ tính bí mật trong xét xử và việc tôn trọng ý chí của các bên. Phán quyết được đưa ra phù hợp với nguyện vọng của các bên và được các bên tự nguyện thi hành là điều kiện đảm bảo việc duy trì mối quan hệ hữu hảo của các bên.
4.7. Tận dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia
Các trọng tài viên tham gia xét xử được các bên đương sự lựa chọn thường là các chuyên gia giàu kinh nghiệm trên nhiều lĩnh vực, trong quá trình xét xử các trọng tài viên sẽ sử dụng kinh nghiệm của mình để đưa ra những phán quyết đúng đắn và phù hợp với lợi ích của các bên.
Để lại một bình luận