Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại.
1. Những vấn đề chung về rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về rủi ro thanh khoản
1.1.1. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Có nhiều quan niệm khác nhau về rủi ro tùy theo cách tiếp cận vấn đề:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn thất mất mát, nguy hiểm, là điều không tốt bất ngờ xảy đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp. Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những khả năng xảy ra thiệt hại, mất mát, nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai [142].
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, rủi ro là những biến cố xảy ra ngoài ý muốn của con người. Rủi ro xuất hiện bao giờ cũng gây ra những hậu quả không mong muốn về cuộc sống và tài chính.
Có thể hiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng là nguy cơ, khả năng thiệt hại mà NHTM phải gánh chịu gắn với hoạt động kinh doanh của mình. Những thiệt hại này có thể dưới dạng mất vốn, đọng vốn, chuyển hóa vốn (tính thanh khoản thấp của các danh mục đầu tư).
Có nhiều cách khác nhau để tiếp cận rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, tuy nhiên có thể tiếp cận theo các góc độ chính đó là các rủi ro có nguồn gốc nội tại và các rủi ro về mặt hệ thống.
Các rủi ro có nguồn gốc nội tại bao gồm: RRTD, RRTK, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái, rủi ro phá sản.
Các rủi ro về mặt hệ thống bao gồm: rủi ro lạm phát, rủi ro công nghệ, rủi ro thay đổi môi trường pháp lý, rủi ro về chu kỳ kinh tế, sự biến động của các yếu tố thị trường.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.1.2. Thanh khoản của ngân hàng thương mại
Trong tài chính, thuật ngữ “thanh khoản” được sử dụng trong nhiều phạm vi khác nhau. Dưới góc độ tài sản, thanh khoản được hiểu là khả năng chuyển hóa thành tiền của tài sản và ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng được các tiêu chí sau: Có sẵn số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường giao dịch, có sẵn thời gian giao dịch, giá cả hợp lý. Theo Peter (2004), một tài sản có tính thanh khoản cao nếu nó thỏa mãn đồng thời hai đặc điểm: có thị trường giao dịch để có thể chuyển hóa tài sản thành tiền và; có giá cả tương đối ổn định, không bị ảnh hưởng bởi số lượng và thời gian giao dịch [117].
Như vậy, tính thanh khoản của tài sản được đo lường thông qua thời gian và chi phí để chuyển hóa tài sản thành tiền. Tài sản có tính thanh khoản cao là tài sản chuyển đổi thành tiền nhanh và chi phí thấp.
Theo bộ quy tắc về “Nguyên tắc quản lý và giám sát RRTK” của BIS (2013), “Thanh khoản là khả năng của ngân hàng vừa có thể tăng thêm tài sản vừa đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn mà không bị những thiệt hại quá mức cho phép” [80].
Từ đó, định nghĩa cơ bản nhất của thanh khoản sẽ là: “Thanh khoản đại diện cho khả năng ngân hàng có thể thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn (đến mức tối đa) và theo đơn vị tiền tệ được quy định. Do thực hiện bằng tiền nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền. Việc không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng thanh khoản”.
Vấn đề thanh khoản chỉ xuất hiện khi ngân hàng đứng trước nhu cầu rút tiền từ khách hàng. Khi đó ngân hàng không chỉ lo cân đối nhu cầu rút tiền với lượng tiền hiện có, mà còn là cân đối với khả năng huy động vốn tiếp theo. Vì thế việc đánh giá tính thanh khoản của ngân hàng phải nhìn ở trạng thái động, tức là cần phải được xem xét trong tương quan cung – cầu vốn khả dụng của ngân hàng trong từng giai đoạn nhất định.
Cung thanh khoản là số tiền có sẵn hoặc có thể có trong thời gian ngắn để ngân hàng sử dụng. Luồng tiền vào này được tạo nên từ các nguồn:
- Các khoản tiền gửi sẽ nhận được
- Thu nhập từ việc cung cấp các dịch vụ
- Các khoản tín dụng sẽ thu về
- Bán các tài sản đang kinh doanh và sử dụng
- Vay mượn từ thị trường tiền tệ
Cầu về thanh khoản phản ánh nhu cầu rút tiền khỏi ngân hàng ở những thời điểm khác nhau. Nhu cầu này phụ thuộc vào các nhân tố sau:
Khách hàng rút các khoản tiền gửi
Đề nghị vay vốn của khách hàng
Thanh toán các khoản phải trả khác
Chi phí cho quá trình tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng
Thanh toán cổ tức cho cổ đông
Trạng thái thanh khoản ròng (NLP) được tính theo công thức sau:
NLP = ∑cung thanh khoản – ∑cầu thanh khoản
Như vậy, trạng thái thanh khoản ròng là chênh lệch giữa tổng cung và tổng cầu thanh khoản tại một thời điểm. Nếu cầu thanh khoản vượt quá cung thanh khoản, ngân hàng sẽ phải đối mặt với trạng thái thâm hụt thanh khoản, tức ngân hàng đang thiếu hụt tiền để chi trả. Để tiếp tục tồn tại, ngân hàng phải xác định bổ sung thanh khoản ngay từ nguồn nào và với chi phí bao nhiêu để giúp ngân hàng trở lại trạng thái cân bằng thanh khoản. Ngược lại, tình trạng cung thanh khoản vượt cầu thanh khoản cũng có thể xảy ra. Trạng thái dư thừa thanh khoản cũng mang lại những thiệt hại cho ngân hàng do ngân hàng đang dư tiền dự trữ không sinh lời.
1.1.3. Rủi ro thanh khoản của ngân hàng
Có nhiều quan niệm về RRTK. Cụ thể:
RRTK là loại rủi ro khi ngân hàng không có khả năng cung ứng đầy đủ lượng tiền mặt cho nhu cầu thanh toán tức thời, hoặc cung ứng đủ thanh khoản với chi phí cao hoặc quá cao [24].
RRTK có thể được hiểu là rủi ro khi NHTM không có khả năng thanh toán tại một thời điểm nào đó, hoặc phải huy động các nguồn vốn với chi phí cao để đáp ứng nhu cầu thanh toán, hoặc do nguyên nhân chủ quan khác làm mất khả năng thanh toán của NHTM, theo đó sẽ kéo theo những hệ quả không mong muốn [43].
RRTK xảy ra khi một tổ chức không có đủ khả năng tài trợ cho sự tăng lên trong tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày và cũng không gây tác động đến tình hình tài chính [67].
Dưới góc độ quản trị thanh khoản ngân hàng thì tình trạng RRTK cao hay thấp để diễn tả tình trạng mất cân bằng của ngân hàng. Trường hợp thặng dư thanh khoản, tức RRTK thấp, xảy ra khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thiếu các cơ hội kinh doanh hay đầu tư, NHTM thiếu các phương pháp và khả năng tiếp cận khách hàng, thị trường, không khai thác hết những tài sản có khả năng sinh lời, nguồn vốn tăng trưởng quá nhanh so quy mô hoạt động và năng lực quản lý. Trong trường hợp RRTK cao – xảy ra khi ngân hàng không có đủ vốn hoạt động, sẽ gây nên những vấn đề nghiêm trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng như mất đi các cơ hội kinh doanh, mất khách hàng, mất thị trường, sụt giảm lòng tin của công chúng [50].
Như vậy có thể thấy có nhiều cách tiếp cận khác nhau về RRTK, song đều thống nhất nhận định rằng RRTK phát sinh từ trạng thái mà ngân hàng không có đủ vốn khả dụng vào thời điểm mà ngân hàng cần để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản. Khi RRTK xảy ra đều gây ra các tổn thất về tài chính và uy tín cho ngân hàng.
Một cách chung nhất có thể hiểu: RRTK là những tổn thất tiềm năng về tài chính, thương hiệu có thể xảy ra do ngân hàng không có khả năng hoặc không có đủ năng lực thực hiện nghĩa vụ chi trả và thanh toán một cách đầy đủ và đúng hạn theo cam kết.
RRTK không phải là rủi ro đơn lẻ (isolated risk) như rủi ro thị trường hay RRTD, mà là loại rủi ro mang tính hệ quả (consequential risk), bởi lẽ ngoài các nguyên nhân mang tính đặc thù, RRTK còn có thể bắt nguồn và chuyển biến xấu dưới tác động của các rủi ro phi tài chính và rủi ro tài chính khác trong hoạt động của ngân hàng.
Mặc dù có rất nhiều cách khác nhau để định nghĩa RRTK, song trong bất kỳ định nghĩa nào, khái niệm nào, RRTK luôn luôn được khẳng định là tổn thất xảy ra cho ngân hàng. Đây là rủi ro quan trong bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc biệt là ngân hàng. Ở mức nặng có thể gây nên phá sản do tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể. Nói chung, trạng thái này tác động xấu tới uy tín, thu nhập và khả năng thanh toán cuối cùng của NHTM.
1.2. Các loại rủi ro thanh khoản ngân hàng
1.2.1. Rủi ro thanh khoản nguồn vốn
Theo BCBS (2006) thì “RRTK nguồn vốn là rủi ro mà một định chế tài chính không đủ khả năng tìm kiếm đầy đủ nguồn vốn để đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày và cũng không gây tác động đến tình hình tài chính” [71].
Theo IMF (2010) thì “RRTK nguồn vốn là khả năng một trung gian tài chính không thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ của họ khi nó đến hạn” [108].
Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của Sakamaki (2011) thì “RRTK nguồn vốn là rủi ro mà một tổ chức có thể bị rơi vào tình trạng thiếu tiền mặt và không thể huy động nguồn vốn mới để đáp ứng nghĩa vụ thanh toán của nó, mà có thể dẫn đến mất khả năng thanh toán chính thức. Do đó việc xem xét tính thanh khoản cần phải được xem xét trong bối cảnh của các tài sản nợ”. [44]
1.2.2. Rủi ro thanh khoản thị trường
Theo Ủy ban thanh tra ngân hàng Basel (2006) thì RRTK thị trường là loại rủi ro mà một định chế tài chính không thể đóng hay thoát khỏi một vị thế mà không làm cho giá của nó giảm đáng kể do rối loạn thị trường hoặc do tiềm lực không đủ. Như vậy chúng ta có thể hiểu thì RRTK thị trường là khả năng giao dịch một tài sản trong một thời gian ngắn nhất, tại một mức chi phí thấp nhất, sao cho giá trị của tài sản bị giảm càng ít càng tốt. Loại rủi ro này thường không áp dụng cho tất cả các ngân hàng vì có những ngân hàng quy mô quá nhỏ so với toàn bộ thị trường. Những sự kiện xảy ra trong nền kinh tế thế giới đều có thể ảnh hưởng đến rủi ro thị trường. Vì đây là loại rủi ro hệ thống, nên trong các cuộc khủng hoảng mang tính hệ thống, các khoản đầu tư có thể sẽ phải chịu rủi ro khá lớn do giảm tính thanh khoản hoặc giảm giá trị. Những sự kiện như thế thường vượt ngoài sự kiểm soát của ngân hàng cũng như Chính phủ [70].
2. Quản trị rủi ro thanh khoản ở các ngân hàng thương mại
2.1. Khái niệm quản trị rủi ro thanh khoản
Theo Nguyễn Thị Mùi (2006), quản trị RRTK “là quá trình nhận dạng, đo lường, kiểm soát và tài trợ những nguy cơ về việc ngân hàng không đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu thanh khoản cho khách hàng” [29].
Theo Phan Thị Thu Hà (2002) quản trị RRTK là việc các NHTM sử dụng hệ thống các cơ chế, chính sách, giải pháp nghiệp vụ với các công cụ kỹ thuật thích hợp nhằm duy trì thường xuyên trạng thái cân bằng giữa cung và cầu thanh khoản, xử lý kịp thời những tình huống bất cập về thanh khoản trong khi vẫn bảo đảm khả năng sinh lời [41].
Như vậy, có thể hiểu quản trị RRTK là việc các NHTM sử dụng hệ thống các cơ chế, chính sách, giải pháp nghiệp vụ với các công cụ kỹ thuật thích hợp nhằm duy trì thường xuyên trạng thái cân bằng giữa cung và cầu thanh khoản, xử lý kịp thời những tình huống bất cập về thanh khoản trong khi bảo đảm khả năng sinh lời.
2.2. Sự cần thiết phải quản trị rủi ro thanh khoản ngân hàng
Thứ nhất, có sự đánh đổi giữa thanh khoản và khả năng sinh lời. Nếu NHTM càng tập trung nhiều vốn để đáp ứng yêu cầu thanh khoản thì khả năng sinh lời dự tính của nó càng thấp và ngược lại. Vấn đề đặt ra là các NHTM phải thực hiện quản lý thanh khoản nhằm một mặt giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra trong kinh doanh, mặt khác để bảo đảm khả năng sinh lời dự tính trong kinh doanh.
Thứ hai, RRTK để lại những hậu quả vô cùng to lớn cho ngân hàng, mức độ nhẹ nhất là giảm thu nhập, uy tín thương hiệu bị sụt giảm, nghiêm trọng nhất là bị phá sản (Ngô Thu Trà, 2016). Rất có thể điều này lại kéo theo sự đổ vỡ hàng loạt trong hệ thống NHTM. Cụ thể: (i) NHTM phải huy động với lãi suất cao hơn để đáp ứng nhu cầu thanh khoản (mua thanh khoản trên thị trường). Điều này dẫn tới sự tăng lên chi phí vốn của NHTM; (ii) NHTM phải bán các tài sản với giá thấp, từ đó làm giảm thu nhập của ngân hàng; (iii) Khi NHTM gặp khó khăn trong thanh toán sẽ dẫn tới sự mất lòng tin của dân chúng cũng như các đối tác kinh doanh. Điều này cũng đồng nghĩa với việc uy tín của ngân hàng bị sụt giảm đáng kể [22].
3. Nguyên tắc quản trị rủi ro thanh khoản
Nguyên tắc 1: Ngân hàng cần thống nhất về một chiến lược quản lý khả năng thanh toán hàng ngày. Chiến lược này cần được truyền đạt trong toàn ngân hàng.
Nguyên tắc 2: Hội đồng quản trị của ngân hàng cần là cơ quan duyệt chiến lược và các chính sách cơ bản liên quan đến quản lý khả năng thanh toán của ngân hàng. Hội đồng quản trị cũng cần đảm bảo là các cán bộ quản lý cao cấp của ngân hàng thực hiện những biện pháp cần thiết để theo dõi và kiểm soát RRTK của ngân hàng và được thông báo ngay lập tức nếu có những thay đổi lớn về khả năng thanh khoản hiện tại hoặc trong tương lai của ngân hàng.
Nguyên tắc 3: Ngân hàng cần có một cơ cấu quản lý để thực hiện có hiệu quả chiến lược và khả năng thanh khoản. Cơ cấu này cần bao gồm sự tham gia thường xuyên của các thành viên thuộc nhóm cán bộ quản lý cao cấp. Các cán bộ quản lý cao cấp cần đảm bảo khả năng thanh khoản của ngân hàng được quản lý một các hiệu quả và có các chính sách phù hợp để kiểm soát và hạn chế RRTK trong một thời gian cụ thể.
Nguyên tắc 4: Ngân hàng cần có hệ thống thông tin đầy đủ cho việc đo lường, theo dõi, kiểm soát và báo cáo RRTK. Các báo cáo cần được cung cấp kịp thời cho hội đồng quản trị của ngân hàng, các cán bộ quản lý cao cấp và các cán bộ có thẩm quyền khác.
Nguyên tắc 5: Ngân hàng cần xây dựng một quy trình cho việc theo dõi và đo lường liên tục các yêu cầu cấp vốn ròng.
Nguyên tắc 6: Ngân hàng cần phân tích khả năng thanh khoản sử dụng nhiều tình huống dạng “ nếu – thì”.
Nguyên tắc 7: Ngân hàng cần xem xét một các thường xuyên những giả thiết được sử dụng trong việc quản lý khả năng thanh khoản để xác định xem giả thiết đó có giá trị hay không.
Nguyên tắc 8: Ngân hàng cần xem xét định kỳ các nỗ lực của mình trong việc xây dựng và duy trì quan hệ với những người nắm giữ tài sản nợ, để đa dạng hóa các tài sản Nợ và đảm bảo khả năng bán được tài sản có của mình.
Nguyên tắc 9: Ngân hàng cần có kế hoạch dự phòng bao gồm chiến lược xử lý các vấn đề về khả năng thanh khoản và quy trình xử lý sự suy giảm luồng tiền trong những tình huống khẩn cấp.
Nguyên tắc 10: Ngân hàng cần có một hệ thống đo lường, theo dõi và kiểm soát khả năng thanh toán đối với các ngoại tệ mạnh mà ngân hàng có kinh doanh. Ngoài việc đánh giá tình hình thanh khoản chung cho tất cả các ngoại tệ và những chênh lệch có thể chấp nhận được kết hợp với các cam kết về nội tệ, các ngân hàng cũng cần phân tích riêng rẽ chiến lược của mình với từng loại ngoại tệ.
Nguyên tắc 11: Dựa trên những phân tích được thực hiện theo nguyên tắc 10, khi cần thiết ngân hàng cần xác định và xem xét thường xuyên trong một khoản thời gian nhất định các giới hạn về quy mô của sự chênh lệch dòng tiền đối với toàn bộ các ngoại tệ và với từng ngoại tệ riêng lẻ mà ngân hàng có kinh doanh.
Nguyên tắc 12: Ngân hàng cần có một hệ thống kiểm soát nội bộ phù hợp với quy trình quản trị RRTK. Một thành phần cơ sở của hệ thống kiểm soát nội bộ là việc đánh giá và xem xét một cách độc lập tính hiệu quả của hệ thống và đảm bảo là việc kiểm soát nội bộ được tăng cường hoặc chỉnh sửa khi cần thiết. Kết quả của những đánh giá này cần được cung cấp cho cơ quan giám sát.
Nguyên tắc 13: Ngân hàng cần có một cơ chế đảm bảo một mức độ hợp lý về công việc công khai thông tin về ngân hàng để đảm bảo uy tín của ngân hàng trong công chúng.
Nguyên tắc 14: Cơ quan giám sát cần thực hiện việc đánh giá các chiến lược, chính sách của ngân hàng có liên quan đến công tác quản lý khả năng thanh khoản một cách độc lập. Các cơ quan giám sát cũng cần yêu cầu ngân hàng phải có một hệ thống hiệu quả để đo lường, theo dõi và kiểm soát RRTK. Cơ quan giám sát cũng cần được cung cấp các thông tin từ ngân hàng một cách đầy đủ và kịp thời để đánh giá mức độ rủi ro và đảm bảo rằng ngân hàng có các kế hoạch dự phòng về khả năng thanh khoản đầy đủ.
4. Quy trình quản trị rủi ro thanh khoản
4.1. Nhận diện rủi ro thanh khoản
Trong quản lý RRTK, thì nhận biết trước nguy cơ tiềm ẩn RRTK có vai trò rất quan trọng, bởi vì nếu như RRTK thực sự xảy ra thì những tổn thất đem đến cho các ngân hàng thường là rất cao, thậm chí đẩy ngân hàng tới việc mất kiểm soát và phá sản.
4.2. Đo lường rủi ro thanh khoản
Phát hiện các dấu hiệu RRTK tiềm ẩn là bước quan trọng giúp ngân hàng có các giải pháp phòng vệ phù hợp, việc sử dụng các cách thức, biện pháp và công cụ nào trong phòng vệ RRTK phụ thuộc rất lớn vào bước đo lường mức độ RRTK này. Việc đo lường RRTK có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau, theo Peter [120] thì có thể đo lường RRTK thông qua các phương pháp sau đây:
(1) Phương pháp tiếp cận nguồn vốn – sử dụng vốn:
(2) Phương pháp tiếp cận cấu trúc vốn:
(3) Phương pháp xác định xác suất mỗi tình huống:
(4) Phương pháp tiếp cận chỉ số thanh khoản
(5) Phương pháp phân tích thanh khoản động
(6) Phương pháp thang đáo hạn
4.3. Lựa chọn chiến lược quản trị thanh khoản
Trên cơ sở tính toán mức độ RRTK, ngân hàng sẽ lựa chọn chiến lược và công cụ quản trị phù hợp. Các ngân hàng có thể lựa chọn một trong các chiến lược sau đây:
Quản trị thanh khoản tài sản
Quản trị thanh khoản thông qua chiến lược tăng cường dự trữ thanh khoản bao gồm: (i) Duy trì ngân quỹ với quy mô và cấu trúc thích hợp; (ii) Phân tích thanh khoản của tài sản thông qua khả năng chuyển tài sản thành ngân quĩ; (iii) Lựa chọn danh mục tài sản phù hợp với điều kiện cụ thể của NHTM nhằm đảm bảo thanh khoản thông qua các tỷ lệ thanh khoản thích hợp hoặc thông qua dự đoán nhu cầu thanh khoản trong tương lai; (iv) Điều chỉnh tính thanh khoản của tài sản bằng cách thay đổi cấu trúc kỳ hạn của tài sản, hoặc tạo ra thị trường cho tài sản, nhằm thay đổi tính thanh khoản của tài sản.
Quản trị thanh khoản từ phía nguồn
Cùng với sự phát triển mạnh của thị trường các công cụ nợ, ngân hàng có thể đẩy mạnh việc huy động vốn trên thị trường nhằm đáp ứng nhu cầu về thanh khoản.
Quản lý thanh khoản từ phía bên nguồn bao gồm các nội dung:
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian và chi phí huy động nguồn.
Lựa chọn cung thanh khoản từ phía bên nguồn thông qua việc phân tích thời gian và chi phí để mở rộng nguồn.
Nghiên cứu các công cụ nợ mới nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí.
So sánh chi phí nắm giữ tài sản thanh khoản và huy động.
Quản trị thanh khoản kết hợp
Chiến lược này trở nên phổ biến dựa trên quản lý dòng tiền vào và dòng tiền ra, trên cơ sở đó, sẽ tính toán khe hở thanh khoản của kỳ tới. Khe hở thanh khoản có thể tính cho từng ngày, tuần, tháng… dựa trên các nhân tố tác động (thời vụ, chu kỳ, tâm lý, áp lực cạnh tranh…).
Để lại một bình luận