Trong bài viết sau đây tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về công tác xã hội hóa giáo dục mầm non.
Cơ sở lý luận về công tác xã hội hóa giáo dục Mầm non
Xem thêm:
– Top đề tài sáng kiến kinh nghiệm mầm non lớp 5-6 tuổi
– 40 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Giáo Dục Tiêu Biểu Nhất
1. Cơ sở pháp lý của công tác xã hội hóa giáo dục Mầm non
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII khẳng định [1]: Giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước và toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời… . Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp ủy và tổ chức Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế – xã hội, các gia đình và các cá nhân có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục – đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập thể… . Đại hội IX cũng nhấn mạnh [1] việc XHH giáo dục, coi đó là một trong những phương thức quan trọng để đẩy mạnh phát triển giáo dục. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ [1]: Nâng cao vai trò các đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế, xã hội trong phát triển giáo dục. Khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh. Kết luận tại hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI một lần nữa nhấn mạnh [1]: “Làm tốt công tác XHH giáo dục để bảo đảm nhu cầu học tập của các đối tượng, nhất là GVMN”. Như vậy có thể nói XHH giáo dục là chủ trương xuyên suốt của Đảng để đẩy mạnh phát triển giáo dục ở nước ta và để thực hiện nguyên lý gắn nhà trường, gắn giáo dục với xã hội, giáo dục luôn đáp ứng nhu cầu xã hội.
Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về việc đẩy mạnh XHH các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao, có 4 nội dung lớn cần thực hiện đối với giáo dục và đào tạo [18]. Đó là: Nhà nước tiếp tục tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục và đào tạo; Huy động các nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế – xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục – đào tạo; Đổi mới hoạt động của các trường công, tăng cường phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị, đổi mới cơ chế học phí, tăng cường công tác thanh tra kiểm tra; Phát triển các trường ngoài công lập, hệ thống giáo dục phi chính quy.
Quyết định số 20/2005/QĐ. BGD-ĐT của Bộ GD-ĐT ngày 24/6/2005 phê duyệt đề án Quy hoạch phát triển XHH giáo dục giai đoạn 2005-2010 như sau [7]: Khuyến khích thành lập các cơ sở GVMN dân lập, tư thục ở thành phố. Tiến đến đưa 70% -80% tỷ lệ trẻ Mầm non học ở các cơ sở ngoài công lập.
Quyết định số 149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án “Phát triển GDMN giai đoạn 2006 – 2015” [20], thể hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta là: Việc chăm lo phát triển GVMN là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi gia đình và toàn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, đầu tư phát triển GVMN; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đẩy mạnh công tác XHH. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ Mầm non phải được thực hiện với sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ cho các bậc phụ huynh, cha mẹ của trẻ nhằm thực hiện đa dạng hóa phương thức chăm sóc, giáo dục trẻ em.
Quyết định số 239/QĐ-TTg ngày 09/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phổ cập GDMN cho trẻ em năm tuổi giai đoạn 2010 – 2015 [23] thể hiện rõ quan điểm “Việc chăm lo để mọi trẻ em năm tuổi được đến trường, lớp Mầm non là trách nhiệm của các cấp, các ngành, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Đẩy mạnh XHH với trách nhiệm lớn hơn của Nhà nước, của xã hội và gia đình để phát triển GVMN”.
Theo Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 26/10/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc Quy định một số chính sách phát triển GDMN giai đoạn 2011 – 2015 [24] có nêu: Thực hiện các chính sách ưu đãi về đất đai, về tín dụng, về thuế, để khuyến khích phát triển trường, lớp Mầm non ngoài công lập, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, khu chế xuất và những nơi tập trung đông dân cư.
Ngày 30/5/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường [21]. Nghị định nêu rõ: Nhà nước, xã hội coi trọng và đối xử bình đẳng đối với các sản phẩm và dịch vụ của cơ sở thực hiện XHH. Các cơ sở này được tham gia cung cấp các dịch vụ công do nhà nước tài trợ, đặt hàng. Các cơ sở thực hiện XHH đầu tư xây dựng trường học được UBND cấp tỉnh tạo mọi điều kiện thuận lợi. Các cơ sở này cũng được miễn phí trước bạ khi đăng ký quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn với đất; được miễn các khoản phí, lệ phí khác liên quan đến quyền sử dụng đất, tài sản gắn với đất.
Quan hệ giữa trường Mầm non, trường mẫu giáo, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập với gia đình và xã hội cũng được quy định rõ tại Chương VII, từ Điều 46 đến Điều 48 của Điều lệ trường Mầm non (ban hành kèm theo Quyết định số 14/2008/QĐ-BGDĐT ngày 7/4/2008 của Bộ trưởng Bộ GDĐT) [12].
Tại Chương II, Điều 9 và Điều 14 của Quy chế Công nhận trường Mầm non đạt chuẩn quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 36/2008/QĐBGDĐT ngày 16/7/2008 của Bộ GDĐT) [9] xác định rõ các nội dung chủ yếu trong công tác XHH giáo dục ở trường Mầm non.
Quy chế Tổ chức và hoạt động trường Mầm non tư thục ban hành kèm theo Quyết định số 41/2008/QĐ-BGDĐT ngày 25/7/2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Có 6 chương, 34 điều) [10] quy định cụ thể việc tổ chức và hoạt động trường Mầm non tư thục, bao gồm: Thành lập, sáp nhập, chia, tách, đình chỉ hoạt động, giải thể nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập, tư thục; Cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động; Tài chính, tài sản; Giáo viên, nhân viên và trẻ em; Thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi phạm.
Có thể nói, XHH GVMN là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta và được thể chế hóa bằng các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền lợi và nghĩa vụ, bắt buộc và tự nguyện đối với tập thể và cá nhân. Đây chính là nền tảng, là cơ sở pháp lý vững chắc trong công tác XHH giáo dục nói chung và XHH GVMN nói riêng.
2. Mục tiêu xã hội hóa giáo dục mầm non
2.1. Xã hội hóa giáo dục Mầm non nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục Mầm non
XHH GVMN sẽ tạo ra các nhân tố đồng thuận giữa nhà trường và xã hội thực hiện mục tiêu giáo dục.
Thông qua XHH, nhà trường huy động nguồn nhân lực, tài lực, vật lực của cộng đồng phát triển nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong trường Mầm non.
2.2. Xã hội hóa giáo dục Mầm non góp phần tăng cường quá trình chuẩn hóa, hiện đại hóa các trường Mầm non
Mục tiêu cao nhất của xã hội hóa giáo dục là giúp cho người học ngày càng được thụ hưởng những điều kiện học tập tốt hơn, nhất là những nơi còn gặp nhiều khó khăn. Kêu gọi XHH GVMN không có nghĩa là giảm đầu tư ngân sách cho GVMN mà là tạo điều kiện thu hút các nguồn lực đầu tư, tăng nguồn thu ngoài ngân sách cho GVMN, đây là yêu cầu bức thiết hiện nay. Tất nhiên, việc thực hiện XHH GVMN phải phù hợp với sức dân, thuận lòng dân. Mọi sự huy động phải hướng vào công việc chuẩn hóa, hiện đại hóa nhà trường: Chuẩn hóa về đội ngũ, chuẩn hóa và hiện đại hóa về cơ sở vật chất sư phạm…
2.3. Xã hội hóa giáo dục Mầm non nhằm thúc đẩy quá trình dân chủ hóa giáo dục
Dân chủ hóa giáo dục là yêu cầu thiết yếu cho sự phát triển giáo dục.
Dân chủ hóa giáo dục đặt ra với GVMN là việc để toàn xã hội thực hiện tốt Luật Bảo vệ và chăm sóc trẻ em. Trẻ em không phải chỉ được chăm sóc ở nhà trường mà còn được chăm sóc tại gia đình, phòng chống bạo hành đối với trẻ, phòng chống các tệ nạn xã hội đe dọa trẻ…
Mục tiêu của XHH GVMN là các lực lượng xã hội, gia đình – nhà trường – xã hội có sự phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện Công ước Quốc tế về quyền trẻ em mà nước ta đã cam kết thực hiện và Luật chăm sóc giáo dục trẻ em mà Nhà nước đã ban hành.
3. Nguyên tắc xã hội hóa giáo dục Mầm non
Việc thực hiện công tác XHH GVMN cần dựa trên những quy định có tính nguyên tắc để đảm bảo sự bền vững, lâu dài và hiệu quả.
3.1. Nguyên tắc tính lợi ích
Mỗi hoạt động hợp tác đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia. Nguyên tắc này tạo động lực cho sự tham gia và bảo đảm cho việc tiếp tục các hoạt động khác sau này.
3.2. Nguyên tắc tính hiệu quả
Mọi hoạt động đều đem lại kết quả cụ thể để tạo niềm tin cho hoạt động tiếp sau, đảm bảo niềm hứng khởi cho hoạt động tiếp theo, từ chỗ các lực lượng xã hội tham gia hoạt động theo yêu cầu đến chỗ tự giác, tích cực. Muốn vậy, nhà trường phải không ngừng nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục, củng cố niềm tin của các lực lượng xã hội vào nhà trường. Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của cả hai phía: nhà trường và cộng đồng, mỗi bên tham gia đều cần tìm thấy lợi ích chung. Ngoài ra, cán bộ quản lý giáo dục phải biết lựa chọn thời gian thích hợp nhất để đưa ra một chủ trương XHHGD.
3.3. Nguyên tắc chức năng, nhiệm vụ
Mỗi tổ chức, lực lượng xã hội đều có chức năng, nhiệm vụ riêng. Để khai thác, phát huy, khuyến khích họ tham gia vào một hoạt động nào đó thì phải phát hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác để phối hợp đúng người, đúng việc.
3.4. Nguyên tắc pháp lý
Việc huy động các lực lượng xã hội tham gia XHH GD cần dựa trên cơ sở pháp lý, cần được thể chế hóa về mặt nhà nước dưới hình thức văn bản pháp quy quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ, bắt buộc và tự nguyện đối với tập thể và cá nhân để đảm bảo thực hiện được lâu dài, nghiêm túc và triệt để.
3.5. Đảm bảo tính công khai, minh bạch, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” các hoạt động xã hội hóa giáo dục
Nguyên tắc này giúp cho mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác XHHGD được thực hiện theo phương thức thỏa thuận, tự nguyện, không ép buộc, áp đặt và phải được sự đồng thuận của cộng đồng.
3.6. Nguyên tắc truyền thống, tình cảm
Cùng với cơ sở pháp lý, quá trình vận động thuyết phục cần phát huy truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, đề cao sự học, giá trị của học vấn; Khơi dậy những tình cảm sâu sắc đối với thế hệ trẻ, kể cả những yếu tố như lương tri, tấm lòng cao cả quan tâm đến giáo dục; Danh dự của cộng đồng, địa phương, của gia tộc, vinh quang của cá nhân…
Nền giáo dục của nước ta là nền giáo dục của dân, do dân, vì dân, nền giáo dục đặt trên các nguyên tắc dân tộc, khoa học, đại chúng. Chủ trương XHH giáo dục được thể hiện rất rõ nét và trong cơ chế XHH hóa giáo dục, Ngành giáo dục phải giữ vị trí hạt nhân. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác XHH giáo dục, nhà quản lý giáo dục phải biết rõ vai trò của mình trong công tác XHH giáo dục, nắm vững các nguyên tắc khi thực hiện công tác XHH giáo dục và phải chủ động trong tổ chức thực hiện các chủ trương, giải pháp do chính mình đề ra.
4. Nội dung của xã hội hóa giáo dục mầm non
4.1. Phối hợp giữa nhà trường và gia đình nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ
Phối hợp thực hiện chương trình chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ
– Thống nhất nội dung, phương pháp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ theo phương pháp khoa học giữa nhà trường và gia đình.
– Phòng chống suy dinh dưỡng và béo phì cho trẻ, có kế hoạch và biện pháp chăm sóc đối với trẻ suy dinh dưỡng và trẻ có khiếm khuyết.
– Đóng góp tiền ăn, các hiện vật theo yêu cầu của nhà trường.
Phối hợp thực hiện chương trình giáo dục trẻ
– Thống nhất nội dung, phương pháp giáo dục trẻ theo phương pháp khoa học giữa nhà trường và gia đình.
– Cha mẹ tham gia vào các hoạt động thực hiện các nội dung giáo dục trẻ phù hợp với chương trình GVMN, cụ thể là :
+ Tạo điều kiện giúp trẻ được tự do tìm tòi khám phá trong môi trường an toàn theo khả năng và sở thích của mình để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ, trẻ mạnh dạn, tự tin, dễ dàng hòa nhập với môi trường xã hội sau này.
+ Chú ý lôi cuốn các thành viên trong gia đình, đặc biệt các thành viên là nam giới: Ông, bố, anh, chú, bác tham gia vào việc chăm sóc và dạy trẻ.
+ Coi trọng việc phát triển, can thiệp sớm và giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật.
– Phát hiện sớm sự phát triển không bình thường của trẻ và phối hợp giáo dục can thiệp sớm đối với trẻ khuyết tật.
– Phối hợp với nhà trường trong việc tổ chức các hội thi, ngày lễ, tổ chức ngày sinh nhật cho trẻ.
– Tạo môi trường an toàn về tình cảm cho trẻ : Xây dựng môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc, gần gũi, thương yêu trẻ, thường xuyên quan sát, trò chuyện với trẻ, phát hiện những thay đổi ở trẻ để có biện pháp phối hợp với nhà trường có tác động giáo dục phù hợp, kịp thời.
Phối hợp kiểm tra đánh giá công tác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ của trường Mầm non
– Tham gia cùng với ban giám hiệu nhà trường kiểm tra đánh giá chất lượng chăm sóc – giáo dục, cụ thể:
+ Theo dõi để phát hiện những tiến bộ, thay đổi, những biểu hiện của trẻ diễn ra hàng ngày, trao đổi kịp thời để giáo viên có sự điều chỉnh trong nội dung và phương pháp chăm sóc – giáo dục trẻ.
+ Tham gia đóng góp ý kiến với nhà trường về chương trình và phương pháp chăm sóc – giáo dục trẻ. Đề xuất nhà trường hướng dẫn các bậc cha mẹ thực hiện việc chăm sóc – giáo dục trẻ ở gia đình có hiệu quả hơn.
– Đóng góp ý kiến về các mặt khác như: Môi trường trường học, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi của nhóm, lớp, thái độ, tác phong, hành vi ứng xử của giáo viên và nhân viên trong trường với trẻ và phụ huynh.
Tham gia xây dựng cơ sở vật chất
– Tham gia lao động vệ sinh trường lớp, trồng cây xanh, làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ.
– Đóng góp xây dựng, cải tạo trường/ nhóm, lớp, công trình vệ sinh, … theo quy định và theo thỏa thuận.
– Đóng góp những hiện vật cho nhóm/ lớp hoặc trường Mầm non.
4.2. Phối hợp với các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức, cá nhân cùng chăm lo phát triển GVMN trên địa bàn
Tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
Các nhà quản lý GDMN chủ động tham mưu với các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương về kế hoạch phát triển GVMN để các cấp lãnh đạo đưa vào chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của địa phương hàng năm. Cụ thể các nội dung cần tham mưu :
– Tăng cường cơ sở vật chất cho trường Mầm non (trường sở, thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, …).
– Chỉ tiêu huy động trẻ trong độ tuổi đến lớp.
– Hỗ trợ đời sống đội ngũ giáo dục Mầm non.
– Quy hoạch, cấp đất đầu tư xây dựng cơ bản trường Mầm non nhằm phát triển quy mô, mạng lưới GVMN trên địa bàn.
Phối hợp với Hội phụ nữ
– Phối hợp với đội ngũ tuyên truyền viên của hội liên hiệp phụ nữ để trang bị cho hội viên phụ nữ những kiến thức nuôi dạy con theo khoa học. (Ví dụ: Cho trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng, cách chế biến các bữa ăn đủ chất dinh dưỡng; tiêm chủng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; theo dõi biểu đồ tăng trưởng để phát hiện còi xương, suy dinh dưỡng hoặc béo phì; đảm bảo an toàn về thể chất và tâm lý cho trẻ, …).
– Phối hợp tổ chức các hội thi “Nuôi dạy con theo phương pháp khoa học”… để động viên đông đảo các tầng lớp phụ nữ học tập trao đổi kiến thức và nuôi dạy con theo phương pháp khoa học.
– Phối hợp vận động các ban ngành, các tổ chức kinh tế. …. đầu cơ sở vật chất thiết bị cho GVMN.
Phối hợp với trung tâm y tế cùng chăm lo sức khỏe cho trẻ
– Tạo môi trường sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh an toàn.
– Khám sức khỏe định kỳ cho trẻ.
– Hướng dẫn các bậc cha mẹ phòng chống một số bệnh thường gặp ở trẻ em: các bệnh về hô hấp, các bệnh về hô hấp, còi xương, suy dinh dưỡng, tiêm chủng đúng lịch, đủ mũi, …
– Bồi dưỡng kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cho đội ngũ cấp dưỡng trường mầm non…
Phối hợp với Ủy ban Dân số Gia đình và Trẻ em: Có chương trình hành động vì trẻ em, phát động tháng hành động vì trẻ em để bảo vệ các thực hiện quyền trẻ em.
Phối hợp với Đoàn thanh niên: Phát động phong trào làm đồ chơi, đồ dùng cho trẻ, đóng góp công sức lao động xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở GVMN.…
Ngoài ra, ngành giáo dục có thể phối hợp với các lực lượng xã hội khác cùng tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào kế hoạch phát triển GVMN trên địa bàn, vào quá trình chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ: Ngành giao thông tham gia vào ban nội dung và ban giám khảo hội thi giáo dục an toàn giao thông trong trường Mầm non…; Sở Tài chính phối hợp với Sở Giáo dục-đào tạo thống nhất xây dựng chế độ chính sách cho giáo viên Mầm non làm cơ sở để Ủy ban Nhân dân tỉnh ban hành chế độ chính sách cho đội ngũ GVMN ở địa phương; các doanh nghiệp góp công sức vào việc xây dựng trường sở hoặc là nơi để nhà trường tổ chức cho trẻ đến tham quan…. . Ngoài ra, các lực lượng xã hội còn có thể tham gia đóng góp ý kiến cho sự phát triển của nhà trường, của sự nghiệp phát triển GVMN trên địa bàn.
4.3. Huy động các lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động phát triển quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp mầm non
GVMN là một cấp học mang tính XHH cao. Thực hiện “Nhà nước và nhân dân cùng làm” góp phần đa dạng hóa các loại hình giáo dục, mở rộng các loại hình dân lập, tư thục và củng cố các trường Mầm non công lập hiện có. Kêu gọi sự đóng góp của toàn xã hội cho GVMN không chỉ về tài lực mà cả về nhân lực, vật lực để xây dựng, sửa chữa cơ sở vật chất – trường lớp, bổ sung trang thiết bị, đồ dùng đồ chơi phục vụ cho công tác chăm sóc – nuôi dưỡng – giáo dục trẻ, hỗ trợ về vật chất và tinh thần giúp đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên Mầm non an tâm công tác… Trong tình hình thực tế hiện nay, việc huy động các lực lượng xã hội tham gia vào các hoạt động phát triển quy mô, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp mầm non sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển GVMN trên địa bàn, tạo điều kiện cho giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn.
Trên đây là bài viết Cơ sở lý luận về công tác xã hội hóa giáo dục Mầm non, hy vọng sẽ góp ích cho bài luận của bạn.
Nguồn: tailuanvan.com
Để lại một bình luận