Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung lý luận về bản sắc văn hóa dân tộc Mường. Bao gồm: Khái niệm và các đặc trưng cơ bản.
1. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của khoa học và công nghệ thông tin đã làm cho thế giới dường như nhỏ lại trước sự truyền dẫn thông tin mạnh mẽ và nhanh chóng. Cùng với sự lan tỏa thông suốt về thông tin trên phạm vi toàn cầu, sự giao lưu, tác động trao đổi lẫn nhau giữa các quốc gia trên mọi phương diện như: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội được thể hiện dễ dàng hơn. Xu thế đó đem lại nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng chứa đựng không ít những thách thức, trong đó có thách thức về giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Điều đó đã đặt ra một yêu cầu bức thiết cho mỗi quốc gia dân tộc phải có những chính sách cũng như giải pháp hữu hiệu để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình phát triển. Chính vì vậy, trong thời gian gần đây, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc được nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Vậy bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Điều gì làm nên bản sắc riêng của mỗi dân tộc? cần được xem xét một cách toàn diện nhiều chiều để từ đó đưa ra những lý giải thấu đáo và nhận thức đúng đắn về bản sắc văn hóa dân tộc.
Để hiểu được khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc trước tiên chúng ta phải tìm hiểu khái niệm văn hóa là gì? Văn hóa là khái niệm được sử dụng phổ biến trong đời sống xã hội, trên thế giới hiện nay có tới hàng trăm cách định nghĩa khác nhau về văn hóa nhưng về cơ bản đều thống nhất coi văn hóa là những gì mà con người sáng tạo, để hình thành nên các giá trị các chuẩn mực xã hội trong qua trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các chuẩn mực đó tác động chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh khi nói về sự tiến triển về tư tưởng tự do của loài người, Ph.Ăngghen đã viết “mỗi bước tiến lên trên con đường văn hóa là một bước tiến tới tự do”[34, tr.164].Trong đoạn trích trên Ph.Ăngghen đã phân tích, con người trong tiến trình lịch sử của mình, khi thoát khỏi người vượn cổ, nghĩa là ngày càng có văn hóa, thì con người ngày càng tự do hơn, theo ông hai chữ “tự do” ở đây là bản chất con người. Thời kì C.Mác và Ph.Ăngghen, khái niệm văn hóa học chưa xuất hiện còn khái niệm văn hóa thì vẫn chưa hoàn toàn tách khỏi văn minh.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
Theo V.I.Lênin, nền văn hóa vô sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hóa bản chất người, V.I.Lênin viết: “Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hóa vô sản bịa đặt ra… văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu”[41, tr.402].
Văn hóa là kết quả của quá trình lao động và hoạt động xã hội của con người, khi mà đề cập đến vấn đề này các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước ta đã khẳng định: “Văn hóa sản sinh ra trong quá trình con người tác động vào tự nhiên và tiến hành đấu tranh xã hội”[10, tr.257].
Một định nghĩa khác về văn hóa: “Văn hóa là biểu hiện của phương thức sống của con người, là tổng hòa mọi giá trị người”, trong các trường hợp văn hóa ở đây luôn chỉ là thuộc tính trong mối quan hệ sự vật – quan hệ, thuộc tính, hay nói một cách khác văn hóa ở đây chỉ có thể là mặt, là khía cạnh, là phương diện hay là thuộc tính của cái khác [45, tr.32].
Định nghĩa “Văn hóa” được cộng đồng thế giới sử dụng nhiều và đã được nhiều người trích dẫn hơn cả là định nghĩa của UNESCO, nêu trong “tuyên bố về chính sách văn hóa” tại hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa của UNESCO từ ngày 26/7 đến ngày 6/8/1982 tại Mêhicô:
“Văn hóa là tổng thể những nét đặc thù về tinh thần và vật chất, về trí tuệ và xúc cảm qui định tính cách của một xã hội hay của một nhóm xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản (tồn tại – being) người, những hệ thống giá trị, những truyền thống và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét (reflect – phản tư) về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt – con người, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm kiếm không mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt qua cả giới hạn của bản thân”.
Trong sách Việt Nam văn hóa sử cương, Đào Duy Anh viết: “Người ta thường cho rằng văn hóa là chỉ những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hóa vốn có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. Học thuật tư tưởng cố nhiên là ở trong phạm vi của văn hóa nhưng phàm sự sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về xã hội cũng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải là ở trong phạm vi văn hóa hay sao? Hai tiếng văn hóa chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: “Văn hóa tức là sinh hoạt”[1, tr.13].
Nhà nghiên cứu văn hóa Phan Ngọc nói ông đã tìm được trên 300 định nghĩa về văn hóa và những định nghĩa này đều theo tinh thần luận, theo thao tác luận ông định nghĩa: “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mô hình hóa theo cái mô hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ thấy nhất, biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác”[44, tr.18].
Khái niệm văn hóa của Trần Ngọc Thêm “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”[56, tr.25].
Nghiên cứu về văn hóa các nhà văn hóa Việt Nam cũng đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau: “Văn hóa là một hệ thống các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và sử dụng các giá trị ấy trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình – tức là trong quá trình nhận thức và tương tác của con người với thiên nhiên, với xã hội; trong quá trình con người tự nhận thức, tự hoàn thiện, – để chủ động nhân đạo hóa ngày càng cao cuộc sống của mình”[55, tr. 20].
Tổng quan về khái niệm văn hóa, chúng ta có thể thấy, có rất nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về văn hóa đã được đề xuất và lưu hành rộng rãi ở Việt Nam và trên thế giới, trong cuốn “Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới”, Phan Ngọc khẳng định: “Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác” [43, tr. 13].
Trong bài viết của mình, Nguyễn Đức Từ Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau về văn hóa vào hai góc độ: “góc rộng, hay góc nhìn “dân tộc học” đây là góc chung của nhiều nghành khoa học xã hội, góc hẹp góc thông dụng trong cuộc sống hàng ngày, còn gọi là góc báo chí”[9, tr.565,570].
Văn hóa còn được hiểu theo một cách khác nữa “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”[39, tr. 314].
Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng ta khởi thảo và được công bố năm 1943, trong bối cảnh bấy giờ chiến tranh thế giới thứ hai đang lan rộng, và ngày càng ác liệt, ở Việt Nam, tình hình kinh tế, chính trị, tư tưởng văn hóa xã hội rất phức tạp, mâu thuẫn giai cấp và dân tộc ngày càng sâu sắc, Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 của Đảng với nội dung ngắn gọn, súc tích, với tính khoa học và cách mạng đã trở thành một vũ khí tư tưởng sắc bén trên mặt trận văn hóa. Nội dung của đề cương gồm 5 phần ngắn gọn, là sự cụ thể hóa quan điểm văn hóa của Đảng, sự gắn bó vai trò văn hóa với ý nghĩa cuộc cách mạng giải phóng, đặt ra những mục đích, nguyên tắc, quan hệ của cuộc cách mạng văn hóa với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, đề ra nhiệm vụ cấp bách của người chiến sĩ văn hóa mácxít như là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong suốt quá trình tiến hành cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa. Tháng 7 năm 1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương năm khóa VIII ra nghị quyết về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhìn vào đó chúng ta có thể thấy toàn bộ tinh thần của nghị quyết đã làm sáng lên bức tranh của nền văn hóa đất nước trong tương lai “…là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội”[17, tr.29].
Đến Đại hội IX, những tư tưởng chủ yếu của Đảng về phát triển văn hóa tiếp tục được thể hiện trên cơ sở thực tiễn thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH Trung ương khóa VIII. Đại hội IX nhấn mạnh vị trí, vai trò của văn hóa trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, khẳng định sức sống lâu bền của những quan điểm tư tưởng nêu trong Nghị quyết này trong đời sống xã hội, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội X, Đảng ta xác định tiếp tục phát triển sâu rộng, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng đưa phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, xây dựng nếp sống văn hóa trong các gia đình, khu dân cư, cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, làm cho các giá trị văn hóa thấm sâu vào mọi mặt đời sống, được thể hiện cụ thể trong sinh hoạt, công tác, quan hệ hằng ngày của cộng đồng và từng con người, tạo sức đề kháng đối với sản phẩm độc hại. Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa truyền thống cách mạng, tiếp tục phát triển nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn, dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc và công cuộc đổi mới đất nước, cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu, cái ác. Phát triển hệ thống thông tin đại chúng, chú trọng nâng cao tính tư tưởng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước, khắc phục những xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích hoạt động báo chí, xuất bản, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về văn hóa.
Đại hội XI, Đảng và nhà nước ta đã đưa ra luận điểm về định hướng xây dựng văn hóa: “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”[20, tr. 76] Như vậy, từ những vấn đề đã trình bày ở trên, chúng tôi hiểu “Văn hóa là một hệ thống các giá trị xã hội (bao gồm giá trị vật chất và giá trị tinh thần) cũng như phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến bộ của con người và sự truyền thụ các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác”.
“Văn hóa” không phải là cái chung trừu tượng, giống nhau ở mọi thời kỳ của xã hội, mọi cộng đồng, dân tộc. Mỗi cộng đồng dân tộc có đời sống xã hội riêng biệt, đặc thù và một lịch sử hình thành, một hiện thực con người không đồng nhất với các cộng đồng khác, cho nên văn hóa mang tính riêng biệt, đặc thù của mỗi dân tộc, một dân tộc muốn tồn tại cùng với nền văn hóa do chính mình tạo ra. Văn hóa có mặt và in dấu trên mọi mặt của đời sống xã hội của một dân tộc nhất định, của một cộng đồng riêng biệt, chúng ta gọi là “bản sắc dân tộc của văn hóa” hay “bản sắc văn hóa dân tộc”.
Bản sắc theo nghĩa ban đầu “bản của một sự vật” là cái gốc, cái căn bản, cái cốt lõi, cái hạt nhân của sự vật, còn “sắc của một sự vật” là cái biểu hiện ra bên ngoài của sự vật đó. Trong Từ điển Tiếng Việt “bản sắc” ở đây là màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính bản sắc dân tộc.
Bên cạnh đó cũng có nhiều ý kiến cho rằng “bản sắc” là màu sắc, tính chất riêng tạo thành đặc điểm chính của đối tượng, sự vật hoặc là tính chất đặc biệt vốn có tạo thành phẩm cách riêng của đối tượng, sự vật. Theo cách hiểu của chúng tôi, mỗi sự vật có nhiều thuộc tính như tính chất, đặc điểm, dấu hiệu, đường nét. Trong đó có những thuộc tính chung và những thuộc tính riêng, thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật ấy, song thuộc tính riêng ấy gắn bó chặt chẽ với thuộc tính chung. Do đó, theo chúng tôi, bản sắc của một sự vật nào đó là tập hợp những thuộc tính cơ bản của sự vật ấy mà qua đó ta phân biệt sự giống và khác nhau giữa sự vật ấy với sự vật khác.
Dân tộc là một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người, trước khi dân tộc xuất hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc. Khái niệm bản sắc được hiểu như trên, còn khái niệm dân tộc thì được hiểu theo nghĩa là dân tộc quốc gia (Nation) và tộc người (Ethnic). Dân tộc quốc gia là “cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung” [27, tr.247].
Một dân tộc quốc gia gồm nhiều tộc người với nhiều hệ cũng như nhóm ngôn ngữ, phong tục tập quán nếp sống văn hóa khác nhau như dân tộc Nga, dân tộc Việt Nam, dân tộc Ấn Độ. Tộc người là những cộng đồng người cùng chung ngôn ngữ, một số phong tục, tập quán lối sống văn hóa và nhất là có một ý thức tự giác dân tộc. Ví dụ: dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Thái, ngoài ra còn nhiều dân tộc khác. Trong một dân tộc quốc gia, ngôn ngữ của tộc người chiếm đa số thường được coi là quốc ngữ (ngôn ngữ chính thức của một quốc gia).
Trong cuốn “Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam” tác giả Ngô Đức Thịnh đã đề xuất quan niệm cho rằng: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một tổng thể các đặc trưng của văn hóa, được hình thành, tồn tại, phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn”[59, tr. 29].
Khi nói đến dân tộc, chúng ta cần phân biệt hai nghĩa của khái niệm dân tộc. Nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia. Nghĩa thứ hai, dân tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó (quốc gia dân tộc). Trong luận văn này khi nói đến bản sắc văn hóa dân tộc, thì khái niệm dân tộc được hiểu theo nghĩa tộc người.
Khi nói đến bản sắc văn hóa là người ta muốn nói đến tinh hoa của một nền văn hóa, đã là tinh hoa thì phải là những gì tốt đẹp nhất đã được lịch sử kế thừa và sàng lọc, thử thách và khẳng định tiêu biểu cho dân tộc trong một giai đoạn nhất định của lịch sử. Có một số quan điểm cho rằng, bản sắc của một dân tộc bao gồm những đặc điểm riêng của dân tộc ấy. Như vậy, quan điểm này đã tuyệt đối hóa tính đặc thù của dân tộc, một số quan điểm khác cho rằng tuy có sự khác biệt giữa các dân tộc, nhưng sự khác biệt này không phải là quan trọng và ít quan trọng hơn trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng hợp tác hội nhập quốc tế và giao lưu văn hóa, đây là quan điểm phủ nhận tính đặc thù dân tộc. Từ những quan điểm trên chúng ta có thể thấy các khía cạnh thực tế nhất định, nhưng tính cực đoan không bao giờ là chân lý. Do vậy, bản sắc dân tộc của văn hóa không phải là một thuộc tính mà là phạm trù chỉ phẩm chất, chất lượng của một nền văn hóa: “Bản sắc chính là văn hóa, song không phải bất cứ yếu tố văn hóa nào giúp phân biệt một cộng đồng văn hóa này với một cộng đồng văn hóa khác là bản sắc”[64, tr.13].
Lịch sử của loài người đã chứng minh, để có được loài người hoàn thiện và phát triển như hiện nay đã phải trải qua quá trình vận động và tiến hóa lâu dài, với nhiều cộng đồng người khác nhau, ở những vùng miền khác nhau cả về không gian và địa lý, cả về phương thức để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người. Khi nói về sự không giống nhau ấy cũng chính là nói về sự khác nhau trong bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng. Khi nói bản sắc văn hóa của mỗi cộng đồng là muốn nhấn mạnh rằng, mỗi cộng đồng đã hiện hình bản chất người của mình trong những sắc thái riêng, được qui định bởi không gian sống với những điều kiện tự nhiên và lịch sử hình thành của cộng đồng ấy: “Bản sắc văn hóa dân tộc là một phạm trù rộng, bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt nhiều đặc điểm của một dân tộc để tạo nên một bộ mặt, hình dáng, cốt cách của dân tộc ấy không đồng nhất với các dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới”[66, tr.289].
Bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển phụ thuộc vào những yếu tố sau: đặc điểm tộc người, điều kiện lịch sử, tự nhiên, môi trường cư trú, thể chế chính trị và sự giao lưu với các nền văn hóa khác. Nói đến văn hóa là nói đến việc dân tộc đã sáng tạo, đã vun trồng nền văn hóa đó. Bản sắc dân tộc về văn hóa cũng chính là bản sắc văn hóa của dân tộc ấy: “Bản sắc văn hóa dân tộc” là tổng hòa những khuynh hướng cơ bản trong sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong mối liên hệ thường xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư tưởng…trong quá trình vận động không ngừng của dân tộc đó”[25, tr.37].
Trong bất kì thời kì nào của lịch sử thì bản sắc văn hóa cũng là một sức mạnh. Đó là sức mạnh nội tại của dân tộc, là hạt nhân năng động nhất trong toàn bộ tinh thần sáng tạo truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bản sắc văn hóa làm cho một dân tộc luôn là chính mình. Với một dân tộc trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc cùng với sự đô hộ của thực dân Pháp hàng trăm năm, nhưng với tinh thần ý chí nghị lực, tự cường, người Việt đã và vẫn giữ được những tinh hoa văn hóa đặc sắc mà bao đời nay cha ông ta gìn giữ. Chúng ta vẫn giữ được tiếng nói của mình, vẫn giữ được vốn văn nghệ dân gian, vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của mình. Có thể thấy, dân tộc ấy đã nắm chắc trong tay chiếc chìa khóa vàng của sự giải phóng, độc lập và tự do: “Một dân tộc qua các biến cố lịch sử một lúc nào đó, một thời đại nào đó có thể mất độc lập, bị người ngoài đô hộ nhưng nếu dân tộc ấy vẫn giữ và phát triển được bản sắc văn hóa của mình, thì dân tộc ấy vẫn nắm chắc trong tay chìa khóa của sự giải phóng, chìa khóa của tự do, độc lập”[7, tr.48].
Như vậy, có thể đưa ra định nghĩa: “Bản sắc văn hóa dân tộc là tổng thể những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa vật chất và tinh thần làm nên sắc thái riêng của một dân tộc trong lịch sử và trong phát triển mà qua đó chúng ta biết được dân tộc này với dân tộc khác trong đời sống cộng đồng.
Bản sắc dân tộc của nền văn hóa không phải là cái nhất thành bất biến, mà nó cũng vận động biến đổi theo bước phát triển của lịch sử, mỗi bước phát triển mới luôn có sự sàng lọc, lọc bỏ, kế thừa một cách tự giác thông qua hoạt động của chủ thể.
Nếu như một dân tộc mà đánh mất đi bản sắc văn hóa, thì có thể nói dân tộc ấy đã đánh mất đi chính mình, một nền văn hóa có tính dân tộc là một nền văn hóa mang đầy đủ bản sắc của dân tộc. Chính vì vậy, việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa của dân tộc, là một vấn đề có ý nghĩa lớn lao đối với mỗi dân tộc “… khi đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị đô hộ thì bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu – đó chính là một cách để tự vệ; còn khi đất nước độc lập, dân tộc tự do thì việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trở thành quan trọng”[57, tr.184 – 185].
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là tổng thể những giá trị bền vững do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo trong quá trình giữ nước và dựng nước. Với nền văn hóa vững chắc và sức mạnh văn hóa to lớn dân tộc ta vẫn giữ và phát huy được sức mạnh văn hóa to lớn dù trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc dân tộc ta chẳng những không bị đồng hóa mà với ý chí quật cường đã đứng dậy giành lại độc lập tự do. Ở đây chứa đựng những tinh hoa mang đậm cốt cách, diện mạo của con người, của các tộc người, hiểu theo một nghĩa khác đây là những giá trị tinh túy nhất, quan trọng nhất, bền vững nhất, là những sắc thái riêng biệt của mỗi dân tộc, là cơ sở để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác đó chính là bản sắc văn hóa của dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc của văn hóa biểu hiện một cách sinh động trong nội dung và hình thức của các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể (văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần) mà dân tộc ta đã sáng tạo và tích lũy trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, từ đó mà nền văn hóa luôn tạo nên cái sắc diện khác biệt để thấy được quá trình phát triển.
Trong chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, Đảng ta chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước, tạo thành những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo” [17, tr.56].
Có thể nói, sự đặc sắc trong văn hóa dân tộc Việt Nam là một nền văn hóa vừa đa dạng vừa thống nhất, sự đan xen, tiếp xúc, biến đổi, bổ sung lẫn nhau của văn hóa các tộc người, trên cùng một lãnh thổ quốc gia. Sự cố kết ấy được thể hiện trong 54 dân tộc anh em sống xen kẽ nhau trong một lãnh thổ, chung một ngôn ngữ phổ thông, quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã hun đúc lên ý chí tự lực, tự cường và ý thức cộng đồng và tinh thần cố kết cao. Các dân tộc Việt Nam có chung một khát vọng cùng sinh sống, cùng chung ý thức dân tộc mỗi một vùng miền của nước ta. Do điều kiện tự nhiên, phương thức canh tác, sự giao lưu văn hóa, tâm lý cộng đồng nguồn gốc lịch sử mà mỗi vùng có những sắc thái văn hóa riêng được thể hiện qua tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, lối sống và những ứng xử trong các sinh hoạt thường ngày. Ở đây thể hiện tính thống nhất và tính đa dạng phong phú không loại trừ mà còn bổ sung cho nhau.
Sự giao lưu và tiếp biến văn hóa, đã tạo nên những yếu tố đặc trưng cốt lõi của mỗi dân tộc vẫn được giữ lại, hòa nhập nhưng không bị hòa tan bởi các yếu tố kinh tế thị trường, sự giao lưu và mở rộng với các nền văn hóa mới. Chính vì vậy, nó làm nên sắc thái độc đáo không trộn lẫn với dân tộc khác làm cho nền văn hóa Việt Nam muôn vàn hương sắc, từ đó tạo nên sự hài hòa, hay còn gọi là hòa hợp dân tộc không làm mất đi tính riêng biệt của bản sắc văn hóa tộc người cùng với sự tiến bộ của cả cộng đồng dân tộc. Từ đó có thể nói, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa thống nhất được biểu hiện rất đa dạng bởi sự phát triển và bổ sung lẫn nhau giữa văn hóa của Tổ quốc và văn hóa của từng tộc người.
2. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Hòa Bình là một tỉnh miền núi nằm trong vùng Tây Bắc Việt Nam, chính nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm ra những chứng tích của một nền văn hóa bắt đầu chuyển sang thời kì đá mới tiêu biểu cho cả khu vực Đông Nam Á lục địa. Con cháu của cư dân Hòa Bình, Bắc Sơn sau này chính là người Lạc Việt, những người đã tạo dựng nên nhà nước Văn Lang với nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ.
Trong cộng đồng 54 dân tộc của Việt Nam, người Mường còn có tên gọi Mol, Mual, Mon, các nhóm địa phương: Ao tá (Âu tá), Mọi bi. Không phải ngay từ buổi đầu của lịch sử, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày nay và trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này để làm tên gọi cho dân tộc mình. Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của người Mường bao gồm nhiều làng, mỗi làng, mỗi vùng được đặt dưới sự cai quản của một nhà lang, qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này. Cho đến tận bây giờ, người Mường vẫn gọi mình là Mol, Moăn như ở Hòa Bình, mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt biến âm hơi, và mỗi vùng, mỗi địa phương đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà người Mường dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là Người. Vì lẽ đó, người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là con Mon: con người. Hiện nay, Mường là tên gọi chính thức, cùng với 54 dân tộc người anh em khác hợp thành cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, ở tỉnh Hòa Bình, ngoài tên gọi chính thức của Nhà nước (xã, huyện), dân tộc Mường vẫn có thói quen dùng tên gọi xưa như “Mường tôm”, “Mường nen”, “Mường khói” (tương ứng với một xã) hay Mường Bi, Vang, Thàng, Động (những Mường lớn, bao gồm một phạm vi khá rộng trong một huyện). Theo những kết quả của nhiều công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học, lịch sử, nhân chủng học, khảo cổ học, dân tộc học, các nhà nghiên cứu đã nhận định rằng, dân tộc Mường và dân tộc Kinh (Việt) hơn một ngàn năm trước có chung nguồn gốc, tổ tiên đó là người Việt cổ (hay còn gọi là người Việt – Mường) họ là những chủ nhân của nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ của dân tộc ta, trong quá trình phát triển. Một bộ phận của người Việt cổ đã xuôi theo các dòng sông lớn như Sông Hồng, Sông Mã tiến hành khai phá đồng bằng, gây dựng cuộc sống mới. Từ đây bắt đầu có sự phân chia những bộ phận ở lại thung lũng, chân núi thành người Mường hiện nay, còn bộ phận di cư và gây dựng cuộc sống mới ở Đồng Bằng, ven biển trở thành những người Kinh hiện nay. Sự thật lịch sử này đã phần nào minh chứng trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ mà tất cả chúng ta ai cũng biết và tự hào về nguồn gốc của mình.
Người Mường cư trú chủ yếu trong các thung lũng có núi đá vôi bao bọc, đây là những dãy núi chạy dài từ Nghĩa Lộ đến khu vực phía tây Nghệ An. Đó là một địa bàn rộng lớn gồm các tỉnh: Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Tây (nay là Hà Nội), Thanh Hóa, trong đó Hòa Bình là tỉnh đông người Mường sinh sống, 6 huyện miền núi của Thanh Hóa (Bá thước, Ngọc lặc, Như xuân, Cẩm Thủy,Thạch Thành, Lang Chánh) 3 huyện của Phú Thọ(Thanh Sơn, Yên Lập, Tam Thanh), và rải rác ở một số huyện của Sơn La, Hà Tây(Hà Nội), Ninh Bình, Nghệ An. Tuy nhiên, Hòa Bình vẫn được coi là quê hương nguồn cội của người Mường.
Bản sắc văn hóa Mường là sự kế thừa trực tiếp bản sắc văn hóa Việt cổ, nhưng được tái tạo theo cảm quan riêng biệt của người Mường, đây là một vị thế đặc biệt của bản sắc văn hóa Mường trong nền văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa Mường cũng thể hiện cái riêng đặc sắc của một văn hóa tộc người đã tồn tại hàng ngàn năm. Chính cái riêng này đã tạo nên một cái diện mạo mà chúng ta không thể trộn lẫn của người Mường. Văn hóa, bản sắc văn hóa Mường trong nền văn hóa đa sắc màu của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ đó có thể thấy, văn hóa, bản sắc văn hóa Mường đã thể hiện được chiều sâu của cội nguồn văn hóa dân tộc. Việc nghiên cứu bản sắc văn hóa Mường có một ý nghĩa vô cùng quan trọng thời kì hội nhập và phát triển sâu rộng như hiện nay.
Từ khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc, chúng tôi hiểu: “Bản sắc văn hóa Mường là những nét riêng độc đáo biểu hiện trong các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần mà cộng đồng người Mường đã sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình, những giá trị này được kế thừa và phát triển qua nhiều thế hệ, và cũng được vận động biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của văn hóa tộc người gắn liền với sự phát triển chung của văn hóa dân tộc”. Trong quá trình phát triển của mình dân tộc Mường đã để lại một di sản các giá trị văn hóa tinh thần và vật chất vô cùng phong phú thể hiện tâm hồn, tình cảm cùng cốt cách độc đáo của dân tộc Mường trong lối sống, lối ứng xử với tự nhiên, ứng xử giữa con người với con người trong xã hội.
3. Một số đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Khi nói đến văn hóa của một tộc người là nói đến các yếu tố như: tiếng nói; ngôn ngữ; chữ viết; lối sống cách ứng xử với môi trường tự nhiên các mối quan hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội, sắc thái tâm lý, tình cảm phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng… Tất cả những yếu tố này được hình thành trong lịch sử nên có tính đặc thù, bền vững, ổn định, được kế thừa và phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác, và được hoàn thiện dần cùng với sự phát triển của tộc người. Văn hóa là một vấn đề rộng, bản sắc văn hóa các dân tộc cũng phong phú và đa dạng. Như đã trình bày ở phạm vi nghiên cứu, luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề thuộc về văn hóa của dân tộc Mường mà chủ yếu khai thác một cách có hệ thống những giá trị văn hóa đặc trưng thuộc về văn hóa dân tộc Mường. Bên cạnh những nét chung mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, văn hóa dân tộc Mường cũng có những nét riêng độc đáo thể hiện bản sắc của tộc người Mường được khái quát một số nét sau:
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt cổ, có chung một nền văn hóa rộng lớn, trải dài suốt bao thế kỉ, thấm đậm dòng máu con Lạc cháu Hồng, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước vươn lên chiến thắng thiên nhiên cùng nhau xây dựng bản làng, để hôm nay có được những cánh đồng bát ngát, những con đường trải dài ven núi. Vì vậy, từ trước đến nay cư dân Mường sống bằng nghề nông nghiệp, trồng lúa và kết hợp làm nương rẫy, bản làng thường tập trung ở chân núi với hướng nhà nhìn ra cánh đồng hay dòng suối. Chính vì điều kiện cư trú như vậy, nên văn hóa Mường mang đậm nét bản địa, bó gọn lại trong các mường và lưu truyền nền văn hóa hết sức giản dị mộc mạc mà độc đáo qua cuộc sống hàng ngày trong từng nếp ăn, nếp nghĩ. Bản sắc văn hóa được thể hiện qua các sản phẩm văn hóa (có thể là vật thể hoặc phi vật thể, có thể là văn hóa vật chất hay văn hóa tinh thần).
– Văn hóa vật thể, văn hóa vật chất
Nhà ở:
Ngôi nhà sàn của người Mường chủ yếu được làm bằng gỗ, tre, nứa, mái bằng rạ hoặc cỏ, trước kia nhà sàn to rộng có thể chứa hàng trăm người, nhưng hiện nay những ngôi nhà sàn như vậy thì không còn, thay vào đó bằng những ngôi nhà sàn nhỏ, gọn, phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại căn cứ vào địa hình vùng rừng núi nhiều triền núi dốc ẩm thấp, thú dữ, mưa lũ nhiều, nên làm nhà sàn vừa có thể tránh lũ, cao ráo, thoáng mát, cuộc sống an toàn hơn. Xét theo quan niệm duy vật thì có lẽ đây mới là yếu tố chính quyết định kiến trúc ngôi nhà sàn, dù xét ở góc độ nào thì ngôi nhà sàn người Mường đều thể hiện được tính ưu việt, đa năng, còn là nơi giáo dục các thành viên trong gia đình.
Kiến trúc và họa tiết trang trí truyền thống nhà sàn Mường rất đơn giản không cầu kì như nhà sàn một số dân tộc khác. Khung nhà sàn được hình thành trên cơ sở các vì trung gian. Đây là loại vì bốn cột: Hai cột cái bên trong, đầu cột đấu vào quá giang và đôi đòn tay cái, hai cột cái bên ngoài khớp với chân kèo, cả bốn cột được gia cố liên kết với nhau bởi dầm sàn nên càng thêm chắc chắn. Nhà có bốn mái dốc hình mu rùa, mái được nâng đỡ bằng một bộ xương các vì kèo, được gá lỏng lẻo vào các cột bằng cách sử dụng các ngoãm và dây buộc. Sàn nhà được làm bằng gỗ, hoặc tre, sàn vừa để ở, vừa đặt bếp, trên sàn để thóc, ngô. Gầm sàn là nơi cất giữ công cụ lao động, củi đun, nhốt trâu bò, lợn gà, đặt mảng vò lúa, cối xay, giã gạo. Cầu thang chính đặt ở đầu hồi bên phải, nối lên gian nhà ngoài nơi đặt bàn thờ tổ tiên và chỗ ngồi của người đàn ông, người cao tuổi tiếp khách nam giới, cầu thang phụ dành cho phụ nữ, nối lên gian nhà trong, gần sàn phơi và bếp dành cho người phụ nữ gắn với công việc bếp núc và sinh hoạt hàng ngày của gia đình. Cách sắp xếp trên dưới trong ngoài ở ngôi nhà thể hiện quan niệm ứng xử kính trọng người già, quý trọng khách và thể hiện vai trò của người phụ nữ trong gia đình.
Như vậy, nhà sàn Mường không mang giá trị vật chất hiện hữu của mấy ngàn năm lịch sử, thể hiện quá trình tiếp nối, cải biến, sáng tạo lối kiến trúc và thích ứng với tự nhiên mà còn là một không gian tinh thần chứa đựng những giá trị nhân sinh, tín ngưỡng, phong tục, tập quán lâu đời dân tộc Mường.
– Trang phục:
+ Trang phục Nữ:
Trang phục của người Mường cũng mang một nét đặc trưng riêng biệt, thể hiện sự tỉ mỉ, tinh tế và khéo léo của người phụ nữ. Trang phục của người phụ nữ Mường đã dần trở lên quen thuộc, gây ấn tượng với chiếc váy bó sát thân, cạp váy hoa phô trước ngực, chiếc áo cánh lửng, chiếc áo trùng buộc vạt, thắt lưng xanh, tấm khăn trắng đội đầu, vòng kiểng sáng lấp lánh. Trang phục của người phụ nữ Mường không diêm dúa như trang phục của phụ nữ Thái hay kín đáo như trang phục của người phụ nữ Mông. Bộ nữ phục ấy mang những sắc thái riêng qua đường nét may và màu sắc trang trí.
Về áo, người phụ nữ Mường có hai loại: áo ngắn (áo pắn) và áo dài (áo chùng). Chiếc áo ngắn là áo mặc thường ngày của người phụ nữ Mường, áo may ngắn thân, xẻ ngực. Áo thường thì không có khuy, nếu có là một chiếc khuy bấm ở ngang ngực, cổ áo tròn, ống tay dài tới mu bàn tay và bó sát cánh tay, ở giữa sống lưng có một đường may ghép từ cổ áo xuống tận gấu áo. Áo ngắn được may bằng vải loại thường hoặc lụa với các màu như trắng, hồng, xanh nõn chuối, màu xanh chàm.
Áo chùng tương tự như áo ngắn nhưng được kéo dài xuống ngang đầu gối hoặc dưới gối, phía dưới xòe hơi rộng, hai vạt áo buông tự do tạo cảm giác mềm mại, không cài cúc, không có nút cài như áo chùng của người Thái. Trước đây, áo chùng may bằng vải sợi tự dệt. Ngày nay, phụ nữ Mường còn dùng chất liệu vải mỏng, mềm, nhẹ như lụa, gấm với các màu sắc trang trọng. Chiếc áo chùng truyền thống thường sử dụng là màu xanh đen, tím than. Chiếc áo chùng được người phụ nữ Mường mặc trong những ngày trọng đại của cuộc đời như lễ cưới, lễ hội, các cuộc vui của người phụ nữ Mường. Đối với nhiều phụ nữ Mường, đặc biệt là các mế thường mặc áo chùng buông vạt cùng chiếc váy cạp đầu rồng, nẹp gấu in hoa cùng chiếc vòng kiềng bạc càng làm tôn thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Mường.
Yếm có hai loại. Loại mặc thường ngày gọi là áo báng, thường dùng màu trắng hoặc màu khác màu, áo ngắn. Loại thứ hai gọi là yếm hoàn toàn giống yếm của phụ nữ Kinh.
Khăn đội đầu bằng vải trắng rộng khoảng 15cm, dài đủ cuốn quanh đầu, khi đội khăn tóc phải búi cao về phía sau gáy. Hiện nay, nhiều phụ nữ Mường có xu hướng thích buông tóc dài hơn là đội khăn, còn những người phụ nữ trung niên và cao tuổi thì chiếc bít trốc truyền thống vẫn là vẻ đẹp riêng của người phụ nữ Mường. Với phong cách không cầu kì như một số tộc người khác như Thái, Mông, váy thường là loại váy kín màu đen, toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc thì mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể.
+ Trang phục Nam:
Không giống như trang phục của nữ giới, trang phục của nam giới Mường đơn giản hơn. Áo của nam cũng có hai loại áo cánh và áo dài.
Áo cánh (áo kéng) may xẻ ngực cài khuy, áo dài chùm mông, cổ đứng, chùm quanh vai là một miếng vải lót hình bán nguyệt, ở giữa sống lưng may ghép hai thân áo thẳng từ cổ áo xuống đến gần gấu áo, áo không xẻ nách tay áo dài tới mu bàn tay.
Với áo dài, nam giới thường mặc lồng một đôi áo chùng. Áo chùng có hai loại, loại trang trọng may bằng vải lụa màu xanh, màu tím hoặc màu vàng, loại thường may bằng vải bông màu đen sẫm, áo dài thường may đến ngang đầu gối, áo cài khuy lệch sang sườn phải, hai bên xẻ tà cao tới ngang hông, cổ áo đứng, áo dài thường được mặc trong lễ cưới.
Quần của nam giới thường may ống rộng và đứng, đũng rộng cắt kiểu chân què, cạ quần rộng, khi mặc dùng sợi dây vải buộc chặt để định vị, quần thường được may bằng vải trắng hoặc nâu, chàm.
+ Trang phục tang lễ:
Trong tang lễ nam giới mặc toàn đồ trắng, áo chùng, hoặc áo cánh màu trắng, khăn tang trắng, đường chỉ may phải lộn trái, gấu áo không để sổ viền, áo không cài khuy mà buộc bằng dây vải, người con trai trưởng phải đeo bên hông bao dao có cả dao, con cháu đều phải mặc đồ tang trắng, con trai, con gái chịu tang bố mẹ phải cắt tóc, sau một năm mới được sửa tóc và nhuộm trang phục.
+ Trang phục của thầy Mo:
Gồm áo chùng xanh may rất rộng và dài đến gót chân, tay áo rộng, vạt trái kéo sang sườn phải và cài khuy bên phải, phần dưới cổ áo may rộng và không xẻ tà, quần được may rộng, đứng ống, đũng thấp, khi mặc cạp quần buộc bằng dải rút để định vị, quần màu trắng hoặc màu xanh chàm.
– Ẩm thực
Cũng như các dân tộc trên đất nước Việt Nam, hầu hết các món ăn của người Mường được chế biến từ các nguyên liệu dựa trên trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và hái lượm làm nguồn thực phẩm chính, người Mường sinh sống trong những thung lũng có triền núi đá vôi bao quanh, gần những con sông, suối nhỏ, người Mường trồng lúa trên những thửa ruộng bậc thang hay dưới những chân núi trũng nước, trồng ngô, khoai, sắn trên các nương rẫy thấp, đánh bắt cá tôm ở lòng sông, khe suối, cuộc sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên, chính sự che chở của thiên nhiên người Mường đã tồn tại cùng những món ăn, thức uống để từ đó văn hóa ẩm thực Mường đã được khẳng định.
Ngoài săn bắt, hái lượm cung cấp thêm nguồn thức ăn cho người Mường. Giống như hầu hết các cư dân vùng Đông Nam Á, với kỹ thuật canh tác trồng lúa, người Mường từ xa xưa đã hình thành tập quán ăn cơm gạo. Khác với người Kinh, người Mường thường dùng cơm nếp trong bữa ăn hàng ngày của mình, bởi giá trị dinh dưỡng của nó. Cơm tẻ dùng cho người già, khách quý, phụ nữ mang thai hoặc sinh nở. Ngày nay, dù gạo tẻ đã chiếm ưu thế, song dân tộc Mường vẫn giữ được nhiều giống nếp nương quý từ ngàn xưa và vẫn có tục dùng lá cây tự nhiên để nhuộm xôi thành nhiều màu sắc để cúng lên thần linh, tổ tiên, như thể hiện lòng thành kính về các giống lúa mà tổ tiên, cha ông ta từng cấy trồng.
Các món ăn của người Mường rất phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc. Các món ăn chủ yếu được chế biến từ các nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên. Người Mường với các món ăn tiêu biểu đặc trưng đó là: món chua (cá chua, rau sắn muối chua, quả đu đủ muối dưa tép, rau cải muối dưa, măng chua) trong góc bếp của mỗi gia đình thường không thể thiếu những món này, món đắng (măng đắng, hoa đu đủ, rau đốm). Những món ăn này không chỉ dùng hàng ngày mà còn là món ăn sử dụng để cúng tổ tiên và trong nhiều nghi lễ dân gian.
Truyền thống của người Mường là thích bày cỗ trên lá chuối trong tất cả những bữa cỗ cộng đồng hay trong gia đình khi giỗ tết. Trong mỗi hoạt động như lễ tết, hội hè, món ăn và cách bài trí đều có những nét riêng, chứa đựng cả yếu tố tín ngưỡng. Với người Mường, phần ngọn và mép lá thường tượng trưng cho Mường sáng – Mường của người đang sống, phần gốc lá và mép lá tượng trưng cho Mường tối – Mường ma của người đã khuất. Chính vì vậy, khi dùng lá chuối bày cỗ, người Mường sử dụng những quy tắc “Người vào, ma ra” để phân biệt. Khi dọn cỗ cho người sống, phần ngọn hướng vào trong, phần gốc hướng ra ngoài, còn khi dọn cỗ cho ma thì ngược lại. Đây là một quy tắc khá nghiêm ngặt không thể vi phạm bởi người Mường tin rằng sự vi phạm sẽ mang lại những điều không may mắn hoặc làm mất lòng khách.
Về đồ uống của người Mường trong nếp sinh hoạt cộng đồng, trong các buổi lễ, tiếp khách không bao giờ thiếu rượu cần. Tục uống rượu cần của người Mường có từ xa xưa. Bình đựng rượu cần là vật gia bảo để càng lâu càng trở nên quý hiếm và là của hồi môn. Để có được một bình rượu cần ngon thì từ cách làm đến cách uống cũng phải thật công phu và mang tính nghệ thuật cao. Tục uống rượu cần không chỉ thể hiện nét đẹp trong văn hóa ẩm thực mà còn là nét đẹp trong văn hóa ứng xử, thể hiện sự tinh tế và tính cố kết cộng đồng.
Trong cuộc sống hàng ngày người Mường thường sử dụng các lá cây rừng vừa để làm nước uống, vừa có tác dụng chữa bệnh, có lợi cho sức khỏe như lá vối, nhân trần, lá chè tươi, hà thủ ô…
– Văn hóa phi vật thể, văn hóa tinh thần
Văn hóa phi vật thể được hiểu là toàn bộ những giá trị văn hóa biểu hiện các hoạt động về lễ hội, trò chơi dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán trong đời sống các cộng đồng tộc người. Trong đời sống các dân tộc ở nước ta, văn hóa tinh thần được biểu hiện ở các tôn giáo, hay các tín ngưỡng dân gian gắn với các hiện tượng tự nhiên, các biểu hiện về một ước muốn cuộc sống yên bình, tốt lành của các cư dân nông nghiệp trồng trọt: thờ thành hoàng làng, tục thờ đất, thờ đá, thờ cây, tục thờ quả, tục thờ mó nước, thờ động vật, thờ cúng tổ tiên, bên cạnh đó là các biểu hiện về văn hóa dân gian, các điệu múa, cồng chiêng, văn học, dân ca cúng bái thần linh, cũng như những quan niệm tư tưởng triết lý về vũ trụ và nhân sinh của các cộng đồng tộc người trong đó có dân tộc Mường.
– Tôn giáo, tín ngưỡng:
Lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng có một sức sống âm thầm và mãnh liệt trong sinh hoạt tinh thần của các cộng đồng dân cư, với dân tộc Mường cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tín ngưỡng dân gian từ ngàn xưa đã ăn sâu bám rễ và được truyền qua nhiều thế hệ, hiện diện trong đời sống như một phần không thể thiếu trong đời sống của mỗi dân tộc trong đó có dân tộc Mường.
Trước khi tiếp xúc với văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa, người Việt cổ chưa hình thành tôn giáo mà chỉ có tín ngưỡng dân gian, các hình trang trí trên trống đồng Đông Sơn đã phản ánh các nghi lễ tôn giáo thời ấy trong đó mô tả rất nhiều về hình ảnh một loài chim, mà cụ thể ở đây là chim lạc. Cho nên, các nhà sử học tin rằng chúng là đối tượng được người Việt cổ tin thờ bên cạnh đó là con rồng cũng xuất hiện trong nhiều các sản phẩm nghệ thuật, mỹ thuật Việt Nam. Ngoài ra, các đối tượng tự nhiên khác như động vật, núi, sông biển cũng được người Việt tôn làm thần bảo vệ, mang lại may mắn cho con người. Trong văn hóa Mường ảnh hưởng của tôn giáo khác không rõ ràng. Theo số liệu thống kê ngày 1/4/2009, tỉnh Hòa Bình có hai tôn giáo chính là Phật giáo và Công giáo, ngoài ra cũng có một số tôn giáo khác như Đạo giáo, Đạo mẫu và Tin lành. Các tôn giáo này phân bố rải rác không đều giữa các huyện trong tỉnh, còn tín ngưỡng dân gian lại ăn sâu bám rễ vào trong nếp nghĩ, biểu hiện sinh hoạt, phong tục, tập quán, lễ tết, lễ hội. Triết lý Âm- Dương tuy chưa hình thành một cách hoàn chỉnh song Triết lý Âm – Dương lại biểu hiện sinh động trong đời sống xã hội Mường.
Ví dụ: trong quan niệm về vũ trụ, trong nghi lễ thờ cúng, trong sinh hoạt hàng ngày cũng giống như bất kì dân tộc nào trên đất nước Việt Nam bằng trực cảm, người Mường cũng đã nhận thấy có thế giới trên cao (trời) và thế giới dưới thấp (đất). Trời và đất tạo nên sự sống cho muôn loài, đi vào cụ thể chúng ta có thể thấy cái nhìn vũ trụ của người Mường cũng có những nét riêng, nét độc đáo, Triết lý Âm – Dương dường như thấm sâu vào từng quan niệm trong đó quan niệm về vũ trụ đó là “Ba tầng, bốn thế giới”.
Ba tầng vũ trụ bao gồm: 1. Tầng trời (hay Mường Trời), nơi ở của các vị thần thiêng liêng, mà cao nhất là vua trời; 2. Tầng mặt đất (Mường pưa) là nơi sinh sống của con người và người chết; 3. Tầng dưới mặt đất (Mường pưa tỉn) và dưới nước.
Bốn tầng thế giới:
Thế giới trên cao (Mường trời)
Thế giới dưới thấp – mặt đất (Mường pưa)
Thế giới dưới mặt đất (Mường pưa tỉn)
Thế giới dưới nước (Mường khú) Mường đáy nước, nơi ngự trị của “vua khú”
Trong quan niệm vũ trụ “ba tầng và bốn thế giới” thì “Mường pưa” thể hiện cho gia đình, ruộng vườn, làng xóm, con người là quan trọng nhất, giữ vị trí trung tâm, mọi sự vật đều liên hệ với thế giới khác đều bắt đầu từ Mường pưa, mọi thế giới đều qui tụ về Mường pưa, đây là cái nhìn duy vật thuần phác của người Mường.
Tục thờ cây: Thờ cây là một tín ngưỡng của cổ xưa. Người xưa cho rằng, “vạn vật hữu linh” coi mọi sự vật đều có sinh mệnh và linh hồn, người Mường thường thờ nhiều loại cây, quả mà tiêu biểu ở đây như cây si, mía, thờ bông lúa, thờ quả bí.
Trong sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường đã dành một chương nói về cây si được ví như thần, cội nguồn của sự sống. Con người được sinh ra từ rễ của cây si. Cây si là một vị thần từ đây chúng ta có thể liên tưởng đến truyện “đẻ trăm trứng” trong hệ thống huyền thoại mở nước của dân tộc, ngoài ra cây si mới đẻ ra đất, nước, trời biển và muôn loài.
Tiếp đến là cây mía, cây lúa cũng là giống cây có hồn nên được thờ cúng. Cây mía trong tín ngưỡng của người Mường có ý nghĩa về sự sinh sôi vừa mang ý nghĩa cầu mong sức khỏe và sự trường thọ. Mỗi khi tết đến, xuân về trong các gia đình người Việt có tục đặt đôi cây mía ở bàn thờ làm “gậy cho các cụ” đã thể hiện sự nối tiếp tục thờ cây mía ở văn hóa Mường.
Tục thờ lúa, cây lúa cũng có vía, nếu gia đình nào biết giữ vía lúa thì vía lúa mẹ sẽ gọi “vía lúa con” về nương sinh sôi nảy nở, mùa màng tốt tươi, gia đình no đủ. Ngày nay, tục thờ vía lúa vẫn được duy trì trong các gia đình người Mường đặc biệt là tháng 10 âm lịch. Người Mường tổ chức lễ cơm mới sau khi thu hoạch vụ mùa, lễ vật là cá và bánh chưng để cúng vía lúa. Trong lễ cơm mới này, người Mường cúng giỗ cha mẹ, ông bà. Ngoài ý nghĩa tâm linh, thờ vía lúa còn nhắc nhở những thế hệ con cháu biết trân trọng những thành quả lao động giữ gìn hạt giống tốt cho mùa sau.
Tục thờ quả: Tục thờ quả của người Mường có ý nghĩa tượng trưng cho sự sinh sôi. Trong tâm thức của người Mường, quả bầu có một vị trí quan trọng, Người Mường quan niệm, quả bầu có rất nhiều hạt. Mỗi hạt khi gieo xuống mọc lên một cây và cho rất nhiều quả mới. Vì vậy, mỗi khi làm lễ về nhà mới, bao giờ người Mường cũng có một quả bầu để dựa vào cột cái của ngôi nhà. Khi đặt quả bầu ở trong nhà mới còn thể hiện khát vọng về cuộc sống, yên bình, thịnh vượng, no ấm, sung túc.
Tín ngưỡng thờ đá: Người Mường thường thờ những hòn đá có hình thù kỳ lạ, liên tưởng đó là các vị thần, vị thánh đã giúp con người chinh phục thiên nhiên. Tục thờ đá được thể hiện rõ nét nhất ở trong lễ mừng nhà mới với các ông đầu rau, thờ các vị chủ thần thổ địa tại chùa Khánh (Cao Phong), ba hòn nục đều bằng đá, chạm đầu vào nhau hàm ý để giữ lửa.
Tín ngưỡng thờ mó nước (vó rác): Nguồn nước mạch có vị trí đặc biệt quan trọng đối với đời sống của người Mường, hàng năm cứ vào dịp cấy lúa hoặc khi thời tiết không thuận lợi, người dân lại tổ chức lễ cúng cầu mưa thuận gió hòa để việc trồng cấy, canh tác được thuận lợi.
Tín ngưỡng thờ tổ tiên: Cũng giống như người Kinh, người Mường cũng thờ cúng tổ tiên, tuy nhiên các nghi lễ cúng không thường xuyên như người Kinh, người Mường chủ yếu tổ chức cúng lễ vào các dịp Tết nguyên đán, mừng cơm mới, ngày làm vía, ngày cầu mát.
Người Mường lập bàn thờ và đặt các bát hương cho đến bốn đời. Tùy thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình mà người ta làm các bàn thờ, đồ thờ to nhỏ, cầu kì hay đơn giản, bàn thờ được bố trí ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà. Ngoài bàn thờ chính thờ tổ tiên, bên trái có thể có bàn thờ khác thờ những người chết không con, điều kiêng kị là không được nằm hướng chân về phía bàn thờ từ các phía trong nhà, ngày giỗ là ngày chôn cất, không phải là ngày chết.
Tín ngưỡng thờ thành hoàng làng: Thờ thành hoàng làng là một trong những tín ngưỡng phổ biến của người Mường. Theo quan niệm của người Mường, thành hoàng làng được coi là vị thần bảo trợ cho chung cả bản Mường, là những nhân vật được thần thánh hóa hoặc những người có công xây dựng bản Mường. Thành hoàng làng có thể là một hay nhiều vị được thờ tại quán, miếu hay đền.
Ngoài thánh Tản Viên là một nhân vật nổi tiếng được thờ khắp vùng Mường, các thành hoàng cụ thể ở từng nơi đều có lý lịch phong phú và đa dạng chẳng hạn Bà Chúa Thác Bờ. Bà Chúa Thác Bờ tên thật là Đinh Thị Vân, con gái một gia đình tộc trưởng người Mường ở Kim Bôi. Bà Chúa xưa vốn là tiên nữ, đầu thai vào nhà họ Đinh. Sau này đất nước gặp cơn loạn lạc, bà đã cùng nhân dân Mường đứng lên đánh đuổi quân xâm lược. Bà được giao cho cai quản vùng đất Mường Hòa Bình, bà đã giúp dân ổn định cuộc sống, làm nương rẫy, xuống sông đánh bắt cá.
Dân Mường Vang thuộc xã Cộng Hòa, Lạc Sơn thờ ông Quách Đốc. Ông Quách Đốc tự xưng là vua đất Mường Vang nên bị triều đình tức giận tìm cách lừa lên kinh thành và chặt đầu, tuy vậy, ông không chết ở kinh thành mà ôm đầu chạy về đến Mường Vang mới tắt thở, vì thế dân làng lập đền thờ ông.
Dân Mường Chiềng, Mường Tôm (Tân Lập, Lạc Sơn) lại thờ một cái đầu lâu không rõ tung tích, trôi theo dòng suối được lũ trẻ chăn trâu nhặt đặt lên gò thờ. Bọn trẻ thách đố nhau một bên cầu khẩn và ứng nghiệm mà thắng, sau đó nhà lang biết chuyện bèn lập miếu thờ ở Đầm Đụn. Hầu hết nhân dân các vùng Mường Hòa Bình đều xác nhận, xưa kia ở các làng, xóm đều có miếu thờ thành hoàng. Một số nơi thờ những vị thần có những điểm tương đồng như vết tích của người Kinh như đền Vó Xăm (Yên Trị, Yên Thủy) thờ hai vị thần Trương Hống và Trương Hát, điều đó chứng tỏ sự gần gũi giữa người Mường và người Việt (Kinh).
– Lễ hội:
Bản chất văn hóa của một vùng dân tộc thường được biểu hiện rõ nhất là ở các lễ hội, ở đó tất cả mọi hoạt động lễ nghi, phong tục tập quán sinh hoạt văn hóa, những tài năng được bộc lộ toàn diện đầy đủ. Trong những năm gần đây chúng ta đã được tiếp cận và giới thiệu về rất nhiều lễ hội. Khi mà dòng chảy văn hóa ngoại lai từ các nền văn minh trên thế giới xâm nhập một cách ồ ạt, các lễ hội của các dân tộc thiểu số vẫn chưa được quan tâm và lưu ý đúng với trữ lượng phong phú và nội dung hấp dẫn của nó. Các lễ hội của cư dân ở Hòa Bình cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong một năm, người Mường thường tổ chức rất nhiều lễ hội. Các lễ hội của người Mường thường diễn ra vào dịp bắt đầu vụ thu hoạch, sau khi thu hoạch hay vào thời điểm giao thời chuyển mùa, năm mới, lễ hội như xuống đồng (khuống mùa), hội xéc bùa, lễ hội cầu mùa, lễ hội cầu mưa, lễ hội cơm mới, lễ hội đình cổi, lễ hội chùa tiên, lễ hội đền và miếu trung báo, lễ hội đền bờ.
– Lễ hội sắc bùa (xéc bùa): Sắc bùa còn gọi là xéc bùa có nghĩa là xách cồng chiêng đi hát của các phường bùa. Hội sắc bùa là lễ hội lớn của dân tộc Mường nói chung và người Mường ở tỉnh Hòa Bình nói riêng, diễn ra hàng năm vào dịp tết cổ truyền. Đây là một hình thức diễn xướng dân gian gắn với một số nghi lễ trong nông nghiệp nhằm cầu mong một năm mới phát tài, thịnh vượng, đất đai màu mỡ, mùa màng bội thu, mọi người có nhiều sức khỏe và may mắn trong cuộc sống.
Lễ hội cồng chiêng: Cồng chiêng có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Mường Hòa Bình. Trong các lễ hội cổ truyền của người Mường, lễ hội cồng chiêng là lễ hội tiêu biểu, mang sắc thái văn hóa truyền thống Mường hơn cả. Lễ hội cồng chiêng của người Mường diễn ra từ 15 tháng giêng đến 15 tháng hai thậm chí kéo dài đến hết tháng ba. Lễ hội cồng chiêng là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa cồng chiêng giữa các địa phương.
Lễ hội cồng chiêng diễn ra ở khắp nơi song tổ chức thường xuyên có quy mô lớn tiêu biểu hơn cả là ở Mường Bi, huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Địa điểm diễn ra lễ hội thường là bãi đất rộng bằng phẳng được bao bọc xung quanh là núi cao. Sở dĩ người Mường chọn địa điểm này là vì bãi đất phẳng để các hoạt động được diễn ra một cách dễ dàng hơn, còn vách núi bao bọc xung quanh được ví như một nhà hát tự nhiên tạo nên sự cộng hưởng. Sau khi mọi thủ tục đã được chuẩn bị hoàn tất, thầy Mo làm lễ cúng tế trên một cái chiếu ở giữa sân, để trình báo với thần linh lễ hội bắt đầu. Mở đầu lễ hội là các bài cồng diễn chung sau đó là những bài cồng dự thi của từng bản Mường. Lễ hội cồng chiêng diễn ra trong không khí vui vẻ đoàn kết. Có thể nói, lễ hội cồng chiêng là nét đặc sắc nhất trong văn hóa cổ truyền của dân tộc Mường bởi người Mường từ khi sinh ra cho đến lúc mất đi mọi hoạt động đều gắn với tiếng cồng, tiếng chiêng.
Lễ hội cầu mưa: Vào những năm thời tiết khô hạn kéo dài hay mùa mưa đến muộn, mong nước về để canh tác, để ải, người Mường thường tổ chức lễ hội cầu mưa. Trong tín ngưỡng dân gian của người Mường có tục thờ con ma khú (thuồng luồng). Đây là con vật lấy nước về cho dân bản Mường cấy lúa, sinh hoạt.
Người Mường chọn một mó nước để tổ chức lễ hội, sau khi thầy mo cúng xong, người dân kéo đến lấy đá ném xuống mó nước bởi trong quan niệm của người Mường, thời tiết khô hạn, mùa mưa đến muộn là do con ma khú ngủ quên, không đi lấy nước cho cả bản nên họ phải ném đá gọi nó dậy cùng tiếng hò reo và cho nó ăn.
Trò chơi dân gian
Cũng như nhiều dân tộc khác, người Mường cũng có các trò chơi dân gian – một hình thức sinh hoạt văn hóa tốt đẹp từ lâu đời. Đối với người Mường, trò chơi dân gian gắn bó mật thiết trong đời sống của họ. Vào ngày hội, ngày xuân hay buổi chiều sau một ngày làm việc vất vả, hoặc vào những đêm trăng tại các bản làng của người Mường thường diễn ra nhiều trò chơi. Những trò chơi dân gian rất gần gũi với tất cả mọi người như đẩy gậy, đánh mảng, bắn nỏ, đánh đu, cò le, chơi ném còn, chơi cà kheo… Tùy thuộc vào từng trò chơi mà người tham gia có thể là trẻ em hay người lớn. Theo các nhà nghiên cứu, trò chơi dân gian là một mảng quan trọng trong di sản văn hóa phi vật thể của người Mường. Các trò chơi dân gian ngoài mục đích chính là giải trí còn có mục đích rèn luyện thể lực, trí óc, giáo dục con người.
– Văn học nghệ thuật dân gian
Văn học: Hòa Bình – mảnh đất Tây Bắc với một nền văn hóa đa dạng và phong phú trong đó phải kể đến mảng văn học nghệ thuật. Có thể nói, với một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian phong phú, với những giá trị được chắt lọc, sáng tạo từ cuộc sống hàng ngày, truyền từ đời này sang sang đời khác, văn học dân gian của dân tộc Mường nổi tiếng với những áng mo đồ sộ. Đây là loại hình văn hóa dân gian nổi bật độc đáo có giá trị nhân văn sâu sắc, là món ăn tinh thần trong cuộc sống của người Mường. Trong lịch sử hàng ngàn năm, Mo Mường đã góp phần hình thành nuôi dưỡng cốt cách, tâm hồn các thế hệ, từ quá khứ đến hiện tại, người Mường đã lưu giữ, truyền miệng và phát huy một cách bền vững những giá trị Mo Mường, tạo nên bản sắc, sức sống và sức lan tỏa sâu rộng của di sản văn hóa vô cùng quý giá này.
Kho tàng truyện cổ tích của người Mường phong phú được người Mường kể cho nhau nghe, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ở mỗi một vùng Mường, người ta có những câu truyện liên quan đến từng địa điểm cụ thể, nhân vật hay hiện tượng tự nhiên riêng của từng vùng, mỗi một câu truyện của người Mường đều thể hiện khát vọng mong muốn về một cuộc sống no đủ, tươi đẹp, về tình yêu đôi lứa, mong mưa thuận gió hòa. Người Mường nổi tiếng với áng Mo sử thi “Đẻ đất, đẻ nước”. Đây là một tác phẩm đồ sộ với nội dung phản ánh toàn bộ tư duy của người Mường về sự hình thành vũ trụ, con người và vạn vật xung quanh. Ngoài ra, người Mường còn là chủ nhân của những sáng tác dân gian với hệ thống ca dao tục ngữ, truyện thơ, hát bọ mẹng, hát đồng dao. Tất cả những sáng tạo này thể hiện trình độ nhận thức, suy nghĩ của người Mường.
– Nghệ thuật dân gian
Nghệ thuật cồng chiêng:
Cồng chiêng của người Mường là một nhạc cụ truyền thống đặc sắc, gắn bó với mỗi người Mường từ khi lọt lòng mẹ đến khi qua đời. Cồng chiêng của người Mường được sử dụng trong các dịp lễ tết, trong đám cưới, đám ma, hát xéc bùa, hay các đoàn đi săn.
Một dàn chiêng hoàn chỉnh, đầy đủ bao gồm 12 chiếc. Ngoài ý nghĩa về âm nhạc, dàn chiêng đầy đủ còn mang ý nghĩa khác đó là biểu tượng cho 12 tháng trong một năm, tính theo vòng quay của mặt trăng, là sự giao thoa của bốn mùa để bắt đầu từ con số 1. Bên cạnh chiêng, người Mường còn có các nhạc cụ khác như trống, sáo, cò ke, kèn gỗ,.. Những loại nhạc cụ này dùng trong các nghi lễ, trong sinh hoạt, lao động sản xuất.
Nghệ thuật múa:
Trong hoạt động nghệ thuật dân gian truyền thống, hoạt động diễn xướng của người Mường trong các nghi lễ, lễ hội và đời thường luôn kèm theo các điệu múa. Nói đến nghệ thuật múa phải kể đến nghệ thuật múa tín ngưỡng mỡi. Trong nghi lễ này, múa và nhạc đóng vai trò quan trọng, người làm mỡi phải nhập vào vai diễn phù hợp với tính cách. Ngoài ra còn có các hình thức múa dân gian khác như: múa cờ, múa quạt ma, đập nàng khót,… Hầu hết các điệu múa là dạng diễn xướng nghi lễ phong tục và có các tính chất trò diễn trong các ngày hội Mường.
Để lại một bình luận