Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung bản chất và vai trò của chiến lược marketing xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của một quốc gia.
1. Khái niệm chiến lược và các cấp chiến lược
1.1. Khái niệm chiến lược
Chiến lược là thuật ngữ dùng trong quân sự. Nhà lý luận quân sự thời cận đại Clawzevit cho rằng “chiến lược quân sự là nghệ thuật chỉ huy ở vị trí ưu thế”. Từ điển Larous coi: chiến lược là nghệ thuật chỉ huy các phương tiện để giành chiến thắng.
Học giả Đào Duy Anh, trong từ điển tiếng Việt đã viết: chiến lược là các kế hoạch đặt ra để giành thắng lợi trên một hay nhiều mặt trận. Như vậy trong lĩnh vực quân sự, thuật ngữ chiến lược nói chung được coi như một nghệ thuật chỉ huy nhằm giành thắng lợi của một cuộc chiến tranh.
Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, chiến lược được ứng dụng vào lĩnh vực kinh tế và kinh doanh và người ta tiếp cận nó theo nhiều cách khác nhau. Chandler (1962) định nghĩa chiến lược là việc xác định các mục tiêu, mục đích cơ bản dài hạn và việc áp dụng một chuỗi các hành động cũng như việc phân bổ các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục tiêu này [6].
James B Quinn cho rằng: chiến lược là một dạng thức hoặc một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và các trình tự hành động thành một tổng thể kết dính lại với nhau [6].
William J Glueck trong giáo trình “Business Policy & Strategic Management” quan niệm chiến lược là: một kế hoạch mang tính thống nhất, tính toàn diện và tính phối hợp, được thiết kế để bảo đảm rằng các mục tiêu cơ bản sẽ được thực hiện.
Johnson và Scholes (1999) định nghĩa lại chiến lược trong điều kiện môi trường có rất nhiều những thay đổi nhanh chóng: chiến lược là định hướng và phạm vi của một tổ chức về dài hạn nhằm giành lợi thế cạnh tranh cho tổ chức thông qua việc định dạng các nguồn lực của nó trong môi trường thay đổi, để đáp ứng nhu cầu thị trường và thoả mãn mong đợi của các bên hữu quan[6].
Qua phân tích các khái niệm trên, có thể thấy có những điểm chung là:
Một là, chiến lược là một chương trình hành động tổng quát hướng tới mục tiêu dài hạn của một chủ thể (quốc gia, tổ chức hay doanh nghiệp) [9], [10].
Hai là, chiến lược bao gồm các chính sách, biện pháp cơ bản quan trọng của chủ thể đó nhằm đạt được mục tiêu: lĩnh vực hoạt động, sản phẩm, phát triển thị trường mục tiêu… [9], [10]
Ba là, chiến lược bao gồm trình tự hành động, cách thức tiến hành và phân bổ các nguồn lực trong môi trường thay đổi, các điều kiện hoạt động đáp ứng nhu cầu thị trường mục tiêu [9], [10].
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm chiến lược là định hướng hoạt động có mục tiêu của một chủ thể trong một thời gian dài cùng với hệ thống chính sách, biện pháp và cách thức phân bổ nguồn lực trong các môi trường để thực hiện đáp ứng được nhu cầu thị trường mục tiêu trong khoảng thời gian tương ứng.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Các cấp độ chiến lược
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia là một văn kiện xác định tầm nhìn dài hạn, mang tính chỉ đạo định hướng tương lai cho sự phát triển của quốc gia đó trên các lĩnh vực chủ yếu như kinh tế, xã hội, môi trường và quản lý nhà nước. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia có thể được coi là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân, thể hiện sự nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước trước các vấn đề của thực tiễn và vận dụng các quy luật phát triển của tự nhiên, của xã hội và của nền kinh tế thị trường để phác thảo ra những định hướng phát triển với các mục tiêu cụ thể và hệ giải pháp tương ứng nhằm quản lý và phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó có hiệu quả cao. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia cũng chỉ rõ cách thức mà quốc gia đó huy động và sử dụng các nguồn lực phát triển một cách hợp lý nhất trong một môi trường cạnh tranh nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội và thị trường, cũng như đáp ứng sự mong đợi của các bên liên quan ở quốc gia đó.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia thường do Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ (Bộ/ngành trung ương) soạn thảo.
Chiến lược ngành/lĩnh vực
Chiến lược ngành/lĩnh vực là bản kế hoạch hành động trung hạn và dài hạn của một ngành/lĩnh vực nhằm đạt được các mục tiêu phát triển nhất định. Mục tiêu là cái đích mà ngành/lĩnh vực đó đề ra và phấn đấu đạt được trong một giai đoạn nhất định với các điều kiện nguồn lực sẵn có hoặc dự kiến có thể huy động được. Mục tiêu, cùng với giải pháp là những thành tố cơ bản của chiến lược, đồng thời cũng là đối tượng chính của công tác theo dõi và đánh giá.
Chiến lược ngành/lĩnh vực được các ngành xây dựng theo định hướng của Chiến lược cấp quốc gia để phát triển ngành/lĩnh vực đó, là định hướng phát triển của ngành/lĩnh vực đó trong từng thời kỳ (thường là 5 năm). Chiến lược phát triển ngành/lĩnh vực là một bộ phận của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia, có mối liên hệ mật thiết với Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia và của địa phương. Chiến lược phát triển ngành/lĩnh vực có thể bao gồm 3 cấp: (1) Bộ/ngành (trung ương), (2) Sở/ngành (cấp tỉnh) và (3) Phòng ban (cấp dưới tỉnh). Nội dung của chiến lược ngành/lĩnh vực được cụ thể hóa thành các chương trình, dự án phát triển, định hình các yếu tố tác động, các cơ chế, chính sách để thực hiện mục tiêu của ngành/lĩnh vực, khai thác những tiềm năng và ưu thế của ngành/lĩnh vực đó diễn ra trên từng vùng, từng địa phương, phục vụ mục tiêu phát triển của ngành và địa phương.
Chiến lược phát triển ngành/lĩnh vực có thể bao gồm: Chiến lược phát triển các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân như: Nông – lâm – ngư nghiệp, Công nghiệp – Xây dựng, Thương mại – Dịch vụ, Y tế, Giáo dục, An ninh – Quốc phòng… và có thể được chia theo các phân ngành cụ thể (theo hệ thống phân ngành của nền kinh tế quốc dân). Trong đó, chiến lược phát triển thương mại có thể bao gồm các chiến lược như Chiến lược phát triển thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ), Chiến lược XK/NK và thương mại nội địa.
Chiến lược cấp chức năng
Chiến lược cấp chức năng thường là những chiến lược tổng quát và hướng tới việc phối hợp các chiến lược trong mối tương quan với những mong đợi của chủ thể chiến lược. Chiến lược cấp chức năng thường là một bộ phận của chiến lược phát triển ngành/lĩnh vực, là công cụ để đạt được các mục tiêu của chiến lược phát triển ngành/lĩnh vực. Chiến lược cấp chức năng có thể bao gồm các chiến lược về yếu tố như Chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chiến lược vốn, chiến lược công nghệ thông tin, chiến lược cơ sở hạ tầng… hay các chiến lược về công cụ như chiến lược marketing, chiến lược xúc tiến, chiến lược phát triển thương hiệu…
Với một triển vọng dài hạn, chiến lược cấp chức năng luôn hướng tới sự tăng trưởng và phát triển trong dài hạn, do vậy chiến lược cấp chức năng được đề cập tới những thể thức khác nhau mà theo đó, ngành đang tăng trưởng, ổn định hoặc suy giảm. Chiến lược cấp chức năng cũng được tiếp cận theo hướng chiến lược tăng trưởng, chiến lược ổn định và rút lui [10, Tr 181].
Chiến lược cấp chức năng tập trung vào sự thay đổi cơ cấu tổ chức ở cấp độ toàn diện, quản trị các quá trình có ảnh hưởng đến kết quả thực hiện mục tiêu chiến lược. Chiến lược cấp chức năng đưa ra cái nhìn toàn cảnh và đánh giá một cách công bằng về các cơ hội hiện tại và trong tương lai. Chiến lược cấp chức năng cung cấp cho hoạt động quản trị trong một cơ chế đương đầu với môi trường kinh doanh phức tạp và đầy biến động do sự đa dạng về văn hoá, chính trị, xã hội và các lực lượng cạnh tranh.
1.3. Các yếu tố cấu thành chiến lược
Mục tiêu chiến lược
Mục tiêu chiến lược được hiểu là những đích cụ thể, rõ ràng, khả thi trong thời gian dài và ngắn hạn. Mục tiêu là cụ thể hoá tầm nhìn chiến lược của chủ thể. Vậy, mục tiêu là sự cụ thể hoá mục đích của chủ thể về hướng đi, quy mô, cơ cấu và tiến trình triển khai theo thời gian.
Trên cơ sở phân tích các yếu tố có liên quan và tác động đến quá trình hoạt động của mình, chủ thể chiến lược xác định mục tiêu dài hạn, có tầm nhìn chiến lược trong tương lai, những cái đích cần hướng tới cho cả một quá trình, cả hệ thống và có tính chất dài hạn.
Cần phải phân biệt mục tiêu chiến lược với con số dự báo. Một dự báo là một chỉ dẫn cái có thể đạt được trong tương lai có tính đến hoạt động trong quá khứ của chủ thể. Dự báo dựa trên sự tính toán, nhưng nhìn chung nó biểu hiện một xu hướng. Trong khi đó, mục tiêu thể hiện ý chí muốn vươn lên và cần phấn đấu để đạt được trong tương lai của chủ thể.
Với cách tiếp cận như vậy, mục tiêu chiến lược ở đây có thể được hiểu là, những kết cục, những đầu ra kỳ vọng trong hoạt động của chủ thể để đặc thù hoá mục đích chiến lược ở một thời kỳ xác định. Ví dụ, P. Drucker đề xuất hệ thống mục tiêu chiến lược trong kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Tồn tại, và tăng trưởng, Lợi nhuận, Phân bổ nguồn lực và các rủi ro, Năng suất – hiệu quả, Vị thế cạnh tranh, Phát triển nguồn nhân lực, Phát triển công nghệ, Trách nhiệm xã hội.
Các giải pháp để thực hiện mục tiêu chiến lược
Khi đưa ra chiến lược, các nhà hoạch định chiến lược phải xác định những yếu tố then chốt để đảm bảo thành công, đó là những giải pháp để thực hiện mục tiêu chiến lược. Các giải pháp đó có thể bao gồm giải pháp về sản phẩm, đầu tư công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật,nâng cao năng lực cạnh tranh, giải pháp về tài chính…
Các điều kiện để thực hiện chiến lược
Chiến lược trong điều kiện ngày nay không thể tách rời khỏi cạnh tranh vì chiến lược kinh doanh quốc gia một phần đảm bảo cho nhà kinh doanh có năng lực cạnh tranh trên thị trường. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, các hoạt động kinh doanh đã được kết nối ở khắp nơi trên thế giới tạo nên sự ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau. Từ đó đã tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà kinh doanh trong ngành cũng như giữa các ngành trong nền kinh tế. Để thực hiện tốt chiến lược đã đề ra, cần phải có các điều kiện cả về khách quan và chủ quan để biến mục tiêu chiến lược trở thành hiện thực. Các điều kiện để thực hiện chiến lược bao gồm:
Các điều kiện khách quan/bên ngoài chủ thể của chiến lược. Đối với chiến lược kinh tế/kinh doanh, các điều kiện này có thể bao gồm: sự xuất hiện và gia tăng của nhu cầu thị trường, dẫn đến cơ hội cho chủ thể chiến lược khai thác và giành lấy lợi ích; hay các điều kiện thuận lợi từ môi trường như xu thế toàn cầu hóa, thị trường mở cửa, sự phát triển của khoa học công nghệ tạo điều kiện thuận lợi hóa thương mại…
Các điều kiện chủ quan/bên trong của chủ thể chiến lược. Các điều kiện này thực chất là các yếu tố nguồn lực giúp chủ thể chiến lược khai thác được các cơ hội thuận lợi từ bên ngoài, bao gồm các yếu tố như nhân lực, cơ sở hạ tầng vật chất – kỹ thuật, điều kiện về vốn, sự quyết tâm và kiên định mục tiêu chiến lược của chủ thể xây dựng và thực hiện chiến lược.
2. Khái niệm, bản chất chiến lược marketing quốc gia
Trong kinh tế và kinh doanh, marketing thường được tiếp cận dưới hai giác độ: Marketing vĩ mô (Macromarketing) và Marketing vi mô (Micromarketing). Theo đó, marketing vĩ mô được hiểu là quá trình xã hội điều khiển các dòng hàng hóa dịch vụ để đảm bảo cân đối cung cầu và đạt được các mục tiêu của xã hội [21]. Marketing vĩ mô thường được nghiên cứu và vận dụng ở cấp độ vĩ mô như vùng, ngành hay quốc gia. Ngược lại, marketing vi mô là quá trình thực hiện các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu của một tổ chức thông qua việc dự đoán nhu cầu của khách hàng để điều khiển các dòng hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của khách hàng [21]; được nghiên cứu và vận dụng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Từ 2 cách tiếp cận này của marketing, chiến lược marketing cũng có thể được tiếp cận từ 2 giác độ: chiến lược marketing của doanh nghiệp (vi mô) và chiến lược marketing của vùng, ngành, địa phương hay quốc gia (vĩ mô).
Về chiến lược marketing được tiếp cận với tư cách là một chiến lược chức năng của doanh nghiệp, có nhiều định nghĩa về nó. Theo P. Kotler: “Chiến lược marketing là hệ thống luận điểm logic, hợp lý làm căn cứ chỉ đạo đơn vị tổ chức tính toán cách giải quyết những nhiệm vụ marketing của mình. Nó bao gồm những chiến lược cụ thể đối với các thị trường mục tiêu, đối với marketing hỗn hợp và mức chi phí cho marketing”. Theo Nguyễn Bách Khoa: “Chiến lược marketing là một loại hình chiến lược chức năng và phản ánh toàn bộ logic tiếp thị thương mại mà nhờ nó các công ty kinh doanh đạt được sự cân bằng cấu trúc, sự thích ứng với môi trường và hiệu suất thực hiện các mục tiêu marketing của công ty trên một thị trường xác định trong dài hạn”. Như vậy, chiến lược marketing là một trong những chiến lược chức năng của doanh nghiệp. Trong kinh doanh hiện đại, đây là chiến lược chức năng có vị thế quan trọng có tính thích hợp cho việc thiết lập và phát triển các chiến lược chức năng khác như chiến lược về sản xuất và tác nghiệp, chiến lược về tài chính và chiến lược tổ chức nguồn nhân lực.
Những nguyên lý cơ bản của marketing không chỉ được ứng dụng trong kinh doanh (phạm vi một doanh nghiệp) mà còn trong những lĩnh vực và phạm vi rộng lớn hơn như một vùng lãnh thổ, một quốc gia. Đó là cách tiếp cận của marketing vĩ mô (macromarketing). Các quốc gia cũng phải tạo ra các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu và mong muốn của khách hàng mục tiêu. Các sản phẩm của quốc gia bao gồm nhiều loại, trong đó có sản phẩm hàng hóa có thể được bán trên thị trường quốc tế. Có nhiều định nghĩa về marketing vĩ mô. P. Kotler cho rằng: “Marketing lãnh thổ (địa phương/quốc gia) là việc thiết kế hình tượng của một vùng lãnh thổ để thỏa mãn nhu cầu của những thị trường mục tiêu). Hay Marketing lãnh thổ là tập hợp các chương trình được lãnh thổ đó tiến hành nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của lãnh thổ và phát triển kinh tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, phạm vi cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt và mang tính toàn cầu, các quốc gia cũng như các doanh nghiệp của quốc gia phải đối diện với nhiều các đối thủ cạnh tranh có năng lực và vị thế cạnh tranh cao, đặt ra những yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng cho hoạt động XK của quốc gia đó.
Chiến lược marketing XK của một quốc gia ở tầm vĩ mô, là một trong những hình thức của chiến lược marketing vĩ mô cho các thị trường quốc tế và được hiểu là: “Toàn bộ các logic tiếp thị thương mại XK, mà nhờ vào đó giúp cho quốc gia XK đạt được những sự cân bằng cấu trúc, sự thích ứng với môi trường thương mại quốc tế và hiệu suất thực hiện kỳ vọng các mục tiêu marketing XK trên một thị trường XK đã được lựa chọn xác định trong một khoảng thời gian dài hạn nhất định ”.
Với cách tiếp cận marketing ở giác độ vĩ mô, chiến lược marketing ở giác độ quốc gia bao gồm 3 bộ phận logic với nhau: Xây dựng chiến lược, thực thi chiến lược, kiểm soát chiến lược.
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy bản chất và nội hàm của chiến lược marketing XK của quốc gia như sau:
Mỗi chiến lược marketing được thiết lập luôn gắn với một mặt hàng hoặc nhóm hàng nhất định, cho một một phân đoạn thị trường và được ứng xử trong một khoảng thời gian dài nhất định.
Chiến lược marketing XK của một quốc gia bao hàm chiến lược marketing mục tiêu, thực chất là chiến lược lựa chọn thị trường XK, lựa chọn phương thức XK, xác định mục tiêu XK và định vị chất lượng sản phẩm trên thị trường XK lựa chọn. Theo tiếp cận hiện đại, người ta còn gọi đây là chiến lược lựa chọn giá trị cung ứng cho thị trường XK.
Trên cơ sở này, chiến lược marketing XK có nội hàm bao gồm: chiến lược sản phẩm XK, chiến lược định giá XK, chiến lược phân phối và logistics XK, chiến lược truyền thông marketing và xúc tiến XK, chiến lược thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp kinh doanh XK … để đáp ứng thị trường XK chiến lược đã được xác lập như trên.
Tiếp theo, chiến lược marketing XK triển khai các nguồn lực cho các công cụ và nỗ lực marketing chiến lược trên: ngân quỹ chiến lược marketing, hệ thống thông tin marketing, tổ chức marketing, nhân sự marketing và lãnh đạo chiến lược marketing XK.
3. Sản phẩm nông sản chủ lực xuất khẩu quốc gia
3.1. Khái niệm sản phẩm
Philip Kotler [24] định nghĩa sản phẩm là một thứ có thể chào bán trên thị trường để chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu. Những sản phẩm được mua bán trên thị trường bao gồm hàng hoá vật chất, dịch vụ, địa điểm, tổ chức và ý tưởng… Khi lập kế hoạch chào hàng hay sản phẩm của mình nhà kinh doanh cần suy nghĩ đầy đủ về năm mức độ của sản phẩm, đó là: Mức cơ bản là ích lợi cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà khách hàng thực sự mua. Mức thứ hai là sản phẩm chung chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó. Mức độ thứ ba người kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi và chấp thuận khi họ mua sản phẩm đó. Mức độ thứ tư, người kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện thêm, tức là một sản phẩm bao gồm những dịch vụ và ích lợi phụ thêm làm sản phẩm khác với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Cạnh tranh ngày nay chủ yếu diễn ra ở mức độ hoàn thiện sản phẩm. Việc hoàn thiện sản phẩm đòi hỏi người kinh doanh phải xem xét toàn bộ hệ thống tiêu thụ. Ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và biến đổi mà sản phẩm đó cuối cùng có thể nhận được trong tương lai.
Các điều kiện kinh tế, các chiến lược kinh doanh, những mong muốn của khách hàng, các điều kiện cạnh tranh và nhiều yếu tố khác nữa có thể xác định nên những thứ tạo thành sản phẩm một cách hợp lý.
3.2. Khái niệm và đặc điểm hàng nông sản
Khái niệm hàng nông sản
Có nhiều quan niệm về nông sản (hàng nông sản):
Theo quan điểm của Việt Nam, nông sản là sản phẩm của nông nghiệp, hay nói cách khác nông sản là sản phẩm của người nông dân sản xuất qua các kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi gia cầm, gia súc, thủy hải sản… Sản phẩm nông nghiệp bao gồm các sản phẩm trong trồng trọt và chăn nuôi cụ thể là nhóm mặt hàng rau củ quả, các loại sản phẩm nguyên cốc như: gạo, ngô, sắn, các sản phẩm từ thịt trứng… Như vậy theo quan điểm của Việt Nam, nông sản hàng hóa chỉ bao gồm các sản phẩm thu hoạch trực tiếp từ cây trồng, vật nuôi chứ không bao gồm các sản phẩm chế biến từ cây trồng vật nuôi đó như: bánh kẹo, rượu bia.
Tổ chức Nông Lương thế giới (FAO) lại có quan điểm cho rằng: Nông sản là tập hợp của nhiều nhóm hàng hóa khác nhau bao gồm: nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới, nhóm hàng nguyên cốc, nhóm hàng thịt và các sản phẩm từ thịt, nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu, nhóm hàng sữa và các sản phẩm từ sữa, nhóm hàng nông sản nguyên liệu, nhóm hàng rau quả.
Nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới bao gồm: các sản phẩm chủ yếu như Cà phê, ca cao, chè đường, chuối, các loại quả có múi, hạt tiêu.
Nhóm hàng nguyên cốc và sắn bao gồm: Lúa mì, lúa gạo, các loại ngũ cốc (kê, ngô…) và sắn.
Nhóm thịt bao gồm: các sản phẩm chủ yếu như thịt bò, thịt lợn, thịt gia cầm và các loại thịt khác.
Nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm từ dầu bao gồm: các sản phẩm chủ yếu như các loại hạt có dầu (đậu tương, hạt cải dầu, hạt hướng dương…), các loại dầu thực vật và chất béo (dầu đỗ tương, dầu cọ dầu cải, dầu hướng dương, …)
Nhóm hàng sữa và các sản phẩm sữa bao gồm: bơ, phomat, và các sản phẩm là phomat.
Nhóm hàng nông sản nguyên liệu thô gồm: bông đay, sợi, cao su thiên nhiên, các loại da thú.
Nhóm hàng rau quả bao gồm: các loại rau, củ và quả (không phải là các loại quả nhiệt đới).
Nhóm hàng đồng vật sống (không tính các loại động vật hoang dã và quý hiếm)
Theo định nghĩa của bộ nông nghiệp Hoa Kỳ, sản phẩm nông sản, đôi khi được đề cập như là các sản phẩm thực phẩm và sợi bao gồm tập hợp nhiều mặt hàng khác nhau từ các sản phẩm chưa chế biến như đậu tương, lúa gạo, bông thô, tới các thực phẩm đăng qua chế biến và có giá trị như xúc xích, bánh ngọt, kem,bia, rượu, và các đồ gia vị được bán trong các cửa hàng bán lẻ hoặc nhà hàng. Một số sản phẩm được sản xuất từ cây trồng và động vật nhưng không được coi là hàng nông sản bao gồm: sản phẩm sợi cotton, sợi chỉ, vải, sợi dệt, quần áo, và các sản phẩm trang trí làm bằng da, thuốc lá điếu, rượu mạnh. Tuy nhiên những sản phẩm này vẫn được đưa vào cơ sở dữ liệu thương mại của Hoa Kỳ bên cạnh những sản phẩm được sử dụng trong sản xuất nông nghiệp như hóa chất nông nghiệp, phân bón, máy móc nông nghiệp.
Theo quan điểm của WTO, trong thương mại, hàng hóa được chia thành 2 nhóm chính là nông sản và phi nông sản, trong đó nông sản bao gồm một phạm vi rất rộng các loại hàng hóa có nguồn gốc từ nông nghiệp, như:
Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê, chè, hạt điều, hồ tiêu, rau quả tươi…
Các sản phẩm nông nghiệp phái sinh như bánh mì, bơ, dầu ăn, thịt…
Các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như: bánh kẹo, các sản phẩm từ sữa, rượu bia, thuốc lá, bông xơ…
Như vậy, có thể thấy quan niệm về nông sản của FAO, Bộ Thương mại Hoa Kỳ và WTO là tương đồng, trong khi quan niệm của Việt Nam lại có sự khác biệt. Cụ thể, trong cách phân loại có tính chất tương đối ở Việt Nam thì sản phẩm nông nghiệp (nông sản) được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các sản phẩm nông nghiệp (trồng trọt và chăn nuôi), thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp; còn các sản phẩm chế biến hàng nông lâm thủy sản lại thuộc về lĩnh vực công nghiệp. Ngược lại, WTO và phần còn lại của thế giới lại quan niệm nông sản bao gồm toàn bộ các sản phẩm từ chương 1 đến chương 24 (trừ cá và các sản phẩm từ cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong hệ thống thuế mã HS của Việt Nam. Nghĩa là nông sản không bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực thủy sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp.
Đặc điểm của hàng nông sản
Đặc điểm cơ bản của sản phẩm nông sản là quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá bán rẻ. Ngược lại, vào những lúc trái vụ hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều và giá bán thường cao. Ngoài ra do đặc tính thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoạch hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu, thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mưa thuận gió hòa, thì cây cối phát triển, cho năng suất cao, hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường và giá rẻ. Ngược lại, nếu năm nào, khu vực nào có khí hậu, thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không cao nhưng giá cao.
Chất lượng hàng nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng của người tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được người tiêu dùng quan tâm. Các quốc gia phát triển ngày càng có nhiều yêu cầu được đặt ra đối với hàng NK về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh, an toàn toàn thực phẩm, kiểm dịch, xuất xứ… Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến rất quan trọng vì: Giá cả hàng nông sản XK phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, đề nâng cao giá hàng nông sản XK thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất dễ ẩm, mốc, biến chất của hàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham gia XK phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản này sẽ quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh.
Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới rất khác nhau. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng gạo, trên thị trường thế giới hiện nay có 6 loại gạo chính, mỗi loại gạo trên lại có thể phân chia thành hai hay nhiều nhóm. Mỗi nhóm thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: thị trường châu Âu và quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài song thị trường châu Á lại quen tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, hạt dài. Thị trường châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung đông quen tiêu dùng gạo thâm, thị trường Lào quen tiêu dùng gạo nếp.
Như vậy, có thể thấy với một loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại rất thấp ở thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một quốc gia vấn đề xác định thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong hội nhập kinh tế thế giới và khu vực.…
3.3. Sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ lực
Từ “chủ lực” (driving force) bắt nguồn từ lĩnh vực quân sự, với nghĩa là lực lượng chính, giữ vị trí nòng cốt, có tính chất quyết định. Lực lượng này được sử dụng khi giải quyết các mục tiêu chiến lược, có ý nghĩa quyết định đến toàn cục. Đặc trưng của lực lượng chủ lực là tập trung với số lượng lớn, được huấn luyện chính quy, hiện đại, có khả năng tác chiến với quy mô lớn. Trong kinh tế, kinh doanh, thường hay gặp thuật ngữ “sản phẩm chủ lực” (tiếng Anh: key/main/major products) với nghĩa là sản phẩm chính, chủ yếu của một doanh nghiệp/địa phương/vùng lãnh thổ/quốc gia, giữ vị trí trọng yếu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu hoặc tạo nên hình ảnh của doanh nghiệp.
Trong các tài liệu của Việt Nam, có thể thấy một số quan niệm về sản phẩm chủ lực như sau:
Sản phẩm chủ lực là sản phẩm giúp gia tăng kim ngạch XK và chuyển dịch cơ cấu hàng XK theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, thúc đẩy XK dịch vụ cũng như tạo điều kiện đẩy nhanh áp dụng công nghệ vào sản xuất theo phương châm tiết kiệm năng lượng, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm làm trọng tâm (Bộ Khoa học Công nghệ Việt Nam, trong Quyết định 21/2001/QĐ – BKHCNMT về Ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất các sản phẩm XK và các sản phẩm chủ lực).
Sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao, tiềm năng thị trường lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất, đóng góp vào phát triển kinh tế (Chương trình Phát triển các sản phẩm công nghiệp chủ lực của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2002 – 2005).
Sản phẩm có sức cạnh tranh cao ở thị trường trong nước và XK, có tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng cao, có vai trò quan trọng, then chốt trong việc đạt được mục tiêu của một thời kỳ nhất định (Quy chế Đánh giá, xét chọn sản phẩm công nghiệp chủ lực của thành phố Hà Nội, 2006).
Theo Tác giả Võ Thanh Thu: sản phẩm chủ lực là sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, phải khai thác được lợi thế của địa phương/quốc gia; mang tính đặc trưng cho địa phương/quốc gia; phải có sự lan tỏa đến các ngành khác, sản phẩm khác, kéo chúng cùng phát triển…
Như vậy, có thể hiểu sản phẩm chủ lực là sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ chủ yếu, có khả năng sản xuất và cung ứng với khối lượng lớn và có năng lực cạnh tranh cao, đồng thời có thể là sản phẩm thể hiện tính đặc thù riêng của một quốc gia, địa phương hay một vùng lãnh thổ.
Từ các phân tích trên về nông sản và sản phẩm chủ lực, có thể đưa ra quan niệm về nông sản XK chủ lực của một quốc gia như sau: Nông sản XK chủ lực của một quốc gia là sản phẩm có nguồn gốc nông nghiệp mà quốc gia đó có khả năng sản xuất và XK với quy mô lớn, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng XK của quốc gia, có năng lực cạnh tranh (lợi thế cạnh tranh) cao trên thị trường quốc tế, có thị trường XK rộng lớn và có khả năng phát triển lâu dài.
Với quan niệm như vậy, nông sản XK chủ lực có một số đặc điểm sau:
Nông sản XK chủ lực của quốc gia là sản phẩm mà quốc gia đó có khả năng sản xuất và XK với quy mô lớn và có tính đồng nhất cao. Nói cách khác, nông sản XK chủ lực phải được tổ chức sản xuất ở quy mô tập trung để có thể đảm bảo cung ứng cho thị trường với quy mô lớn, đồng thời chất lượng và các tính chất của sản phẩm phải đảm bảo có sự đồng nhất giữa các cá thể. Nông sản không thể trở thành mặt hàng XK chủ lực nếu được sản xuất và cung cấp với quy mô nhỏ lẻ, manh mún và có tính cá biệt cao, bởi như vậy sẽ không thể có năng lực cạnh tranh tốt và có thị trường XK rộng lớn.
Nông sản XK chủ lực của quốc gia phải có năng lực cạnh tranh quốc tế. Nông sản XK chủ lực phải là những sản phẩm có chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật… đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng XK tốt, chiếm được ưu thế cạnh tranh với các quốc gia XK khác. Trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay, cạnh tranh giữa các quốc gia trong XK hàng hóa là tất yếu và càng ngày càng phức tạp về mức độ và cách thức, do vậy, nông sản XK chủ lực của một quốc gia nhất thiết phải có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế để có thể tồn tại và phát triển một cách lâu dài, bền vững.
Nông sản XK chủ lực của quốc gia thường mang tính đặc trưng cho quốc gia mà sản phẩm của quốc gia khác không có hoặc không thể sánh kịp. Xuất phát từ những lợi thế cạnh tranh của quốc gia trong sản xuất nông sản như vị trí địa lý, điều kiện thời tiết, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên, phương thức sản xuất, canh tác… nên nông sản XK của một quốc gia thường mang tính đặc trưng, và tính đặc trưng đó có thể là điểm hấp dẫn để khách hàng lựa chọn sản phẩm của quốc gia đó thay vì của các đối thủ cạnh tranh (quốc gia) khác. Đây được coi là lợi thế cạnh tự nhiên của nông sản XK chủ lực của quốc gia, đồng thời góp phần tạo nên hình ảnh/biểu tượng của quốc gia, thương hiệu quốc gia trên thị trường quốc tế.
Nông sản XK chủ lực phải là sản phẩm an toàn, thân thiện với môi trường. Nông sản XK chủ lực là sản phẩm có quy trình sản xuất, khai thác, chế biến an toàn, thân thiện với môi trường, đảm bảo tính bền vững trong sản xuất và XK. Đồng thời, trong xu thế hiện nay khi các hàng rào kỹ thuật trong XNK hàng nông sản đang ngày càng được sử dụng nhiều trong buôn bán quốc tế, thì những sản phẩm an toàn, thân thiện với môi trường và khai thác bền vững các yếu tố tài nguyên càng có cơ hội cao hơn trong XK.
4. Sự cần thiết xây dựng chiến lược marketing xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của một quốc gia
Chiến lược marketing xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của một quốc gia có thể coi là toàn bộ các logic tiếp thị thương mại XK hàng nông sản chủ lực, mà nhờ vào đó giúp cho quốc gia XK đạt được những kết quả mong muốn trong XK hàng nông sản chủ lực của quốc gia đó, tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững, nâng cao lợi thế cạnh tranh của hàng nông sản XK trên thị trường XK mục tiêu trong một khoảng thời gian dài hạn nhất định.
Chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của một quốc gia có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội đất nước. Một chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực được xây dựng hợp lý và thực hiện một cách hiệu quả ở tầm mức quốc gia sẽ tạo ra những động lực và những nhân tố mới thúc đẩy xuất khẩu trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên cạnh tranh khốc liệt. Sự cần thiết và vai trò của chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của một quốc gia thể hiện ở những khía cạnh sau:
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của một quốc gia, đặc biệt là quốc gia có nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp sẽ tác động làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều việc làm mới và góp phần cải thiện thu nhập cho người lao động, đặc biệt là nông dân, nâng cao mức sống của người dân, góp phần thúc đẩy phân công lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ở bất cứ quốc gia nào, người dân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp thường ở vị trí bị động, dễ bị tổn thương, yếu nhất trong số các phần tử cấu thành chuỗi sản xuất – kinh doanh nông nghiệp. Chính vì vậy, tạo việc làm cho người lao động, cải thiện thu nhập và đời sống của họ sẽ tạo ra tác động kinh tế xã hội to lớn, không chỉ góp phần phát triển XK mà cũng làm cho thị trường trong nước phát triển sôi động hơn.
Chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của một quốc gia là một tổng thể bao gồm các mục tiêu XK dài hạn, sự phân tích và đánh giá thực trạng và tiềm năng XK các mặt hàng nông sản chủ lực, cùng những cơ hội và thách thức trong môi trường kinh doanh đầy biến động, từ đó xây dựng nên hệ thống các chính sách, biện pháp và điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng nông sản chủ lực của quốc gia trên thị trường quốc tế, nâng cao uy tín và ảnh hưởng của quốc gia, mở rộng và củng cố thị trường xuất khẩu, tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững. Chính vì vậy, chiến lược này góp phần phát triển xuất khẩu theo hướng khai thác lợi thế so sánh, phát triển bền vững theo hướng bền vững, hiệu quả vì xác định rõ cặp thị trường – sản phẩm (sản phẩm nào XK sang thị trường nào) chứ không chỉ dừng ở việc sản xuất ra rồi cố gắng xuất khẩu.
Chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của quốc gia cung cấp căn cứ, cơ sở để xác định mặt hàng xuất khẩu chủ lực cấp quốc gia. Đó là những mặt hàng có sức cạnh tranh trên thị trường XK, thể hiện qua kim ngạch XK tăng trưởng ổn định, nhu cầu của nhà NK lớn, ổn định, lâu dài; kim ngạch XK chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch XK nông sản của quốc gia; có nguồn cung (khả năng cung ứng cho XK) ở trong nước ổn định, lâu dài; mang tính chất đặc thù của quốc gia mà các đối thủ cạnh tranh khác khó bắt chước; có tiềm năng XK lâu dài, có khả năng lôi cuốn các nhà NK tiềm năng khác. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, chiến lược marketing XK nông sản chủ lực là căn cứ để quốc gia ưu tiên nguồn lực đầu tư cho SX, canh tác các mặt hàng XK chủ lực, tránh đầu tư dàn trải, lãng phí và kém hiệu quả.
Chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của quốc gia tạo điều kiện để giữ vững ổn định thị trường XK quốc gia, đóng góp vào kim ngạch XK và tăng trưởng XK của quốc gia đó. Các mặt hàng XK chủ lực là các mặt hàng cho phép tận dụng và khai thác lợi thế so sánh trong XK của quốc gia đó trong sản xuất và XK như nguồn lao động dồi dào, cần cù với chi phí rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, sản phẩm mang đặc sắc địa phương/vùng miền/quốc gia mà nơi khác không có, từ đó làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người nông dân, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp phân phối, xuất nhập khẩu nông sản hiệu quả hơn.
Chiến lược marketing XK hàng nông sản chủ lực của quốc gia góp phần xây dựng định vị thương hiệu chung cho nông sản của quốc gia đó trên thị trường quốc tế; gia tăng nhận thức và công nhận ở quy mô quốc tế đối với vị thế và thương hiệu của nông sản chủ lực của quốc gia; xây dựng uy tín về chất lượng và giá trị của sản phẩm; phát huy thế mạnh trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản chủ lực của quốc gia, cả về khai thác lợi thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh và nâng cao lợi ích cho quốc gia trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Để lại một bình luận