Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn lý luận cơ bản về phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Bao gồm các nội dung sau: Khái niệm, tiêu chí, các nhân tố ảnh hưởng.
1. Khái niệm về phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến triển theo hướng tăng lên, ví dụ phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, phát triển xã hội… Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học chỉ ra tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc của phát triển là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật: từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn. Như vậy cho thấy khái niệm phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp đó là quá trình vận động của thị trường trái phiếu theo chiều hướng đi lên và phát triển từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn.
Phát triển thị trường TPDN là phạm trù kinh tế, trong khuôn khổ một định nghĩa hay một khái niệm ngắn gọn không thể bao hàm hết được nội dung của nó. Song nhất thiết khái niệm đó phải phản ánh được các nội dung cơ bản sau:
Sự tăng lên về quy mô thị trường, làm tăng thêm giá trị của thị trường và sự biến đổi tích cực về cơ cấu thị trường, có khả năng khai thác nguồn lực trong nước và ngoài nước.
Sự tác động của tăng trưởng thị trường trái phiếu doanh nghiệp làm thay đổi cơ cấu thị trường tài chính, cải thiện chất lượng của thị trường trong vai trò là cầu nối giữa nguồn cung và cầu của nguồn vốn.
Sự phát triển là quy luật tiến hoá, song nó chịu tác động của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố nội lực của nền kinh tế có ý nghĩa quyết định, còn nhân tố bên ngoài có vai trò quan trọng.
Ở khía cạnh vận động theo hướng đi lên của thị trường TPDN sẽ được thể hiện ở sự tăng lên về quy mô, số lượng, giá trị TPDN được phát hành của các doanh nghiệp năm sau cao hơn năm trước từ đó tăng cường nguồn vốn cho đầu tư sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, đóng góp vào nguồn lực phát triển đầu tư toàn xã hội. Ở khía cạnh phát triển về trình độ thể hiện trong chất lượng của thị trường TPDN trong cung cấp môi trường hoạt động trong đó bao gồm cả khoa học công nghệ cũng như môi trường pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường TPDN. Thực tế thị trường TPDN của các nước đã có một thời gian dài phát triển và để đánh giá được tình trạng phát triển này các nước cũng đưa ra một số tiêu chí.
2. Tiêu chí để xác định sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thị trường vốn trong đó có thị trường TPDN đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế khi cung cấp nguồn vốn cho các thành phần kinh tế tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh. Trong đó, hệ thống TCTD sẽ cung cấp tiền ra nền kinh tế trong ngắn hạn; còn ở kỳ hạn dài, trái phiếu là công cụ để Chính phủ và doanh nghiệp có thể huy động vốn phục vụ mục tiêu của mình. Do đó, muốn phát triển thị trường TPDN, mỗi quốc gia phải có hệ thống giải pháp và lộ trình riêng, phù hợp với đặc điểm của từng thị trường, nhưng vẫn tập trung vào một số yếu tố nhất định như: Nhà đầu tư, tổ chức phát hành và hệ thống văn bản pháp luật…
Để đánh giá về sự phát triển của thị trường trái phiếu trong đó có thị trường TPDN có nhiều tiêu chí khác nhau với những quan điểm khác nhau, tuy nhiên thường tập trung vào các yếu tố như quy mô thị trường, tổ chức phát hành hay nhà đầu tư… Andritzky (IMF) [47] đã đưa ra 4 tiêu chí nhằm phát triển thị trường vốn (trong đó có thị trường TPDN): (i) Mở rộng quy mô thị trường và giao dịch, cụ thể ở đây là tổng dư nợ thị trường và khối lượng/giá trị giao dịch hàng ngày; (ii) Tăng cường năng lực phát hành của các tổ chức phát hành như Chính phủ, doanh nghiệp, CQĐP, cùng với hệ thống nhà đầu tư; (iii) Hoàn thiện hạ tầng cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác phát hành, lưu ký và hoạt động giao dịch. Cuối cùng là cập nhật, sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật làm khung pháp lý cho hoạt động của thị trường. Trong 4 yếu tố này, quy mô thị trường là thước đo thị trường vốn có phát triển hay không, nhưng cũng không được loại trừ những yếu tố khác như cơ sở nhà đầu tư, tổ chức giao dịch hay nguồn cung trên thị trường để có cái nhìn chi tiết hơn về sự phát triển đó.
ADB đưa ra 5 tiêu chí cần tập trung tăng cường để phát triển thị trường trái phiếu: (i) Nâng cao quy mô thị trường, đối với cả TPCP và TPDN; (ii) Tăng cường thanh khoản trên thị trường thứ cấp, biểu hiện ở khối lượng giao dịch; (iii) Cơ cấu lại kỳ hạn của TPCP, TPDN theo hướng dài hạn, từ 10 đến 30 năm; (iv) Mở rộng cơ sở nhà đầu tư, hướng đến các công ty bảo hiểm và đặc biệt là quỹ hưu trí; (v) Hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động của thị trường. Bên cạnh mục tiêu tăng cường quy mô thị trường thì những mục tiêu còn lại là sự bổ sung cần thiết để có thể phát triển một thị trường trái phiếu hiệu quả. Với từng quốc gia và điều kiện cụ thể, hệ thống giải pháp và chính sách nhằm phát triển thị trường sẽ được tập trung vào một hoặc toàn bộ yếu tố để tạo sự cân bằng [52].
Cùng về chủ đề phát triển thị trường vốn, các tác giả tại WB lại có cách nhìn khác về tiêu chí để đánh giá tình hình phát triển của thị trường vốn tại những quốc gia mới nổi [27]. Tương tự với nghiên cứu của Andritzky, phải có quy mô thị trường và khối lượng giao dịch lớn. Đồng thời, có sự tham gia của khu vực tư nhân vào thị trường, cả ở góc độ tổ chức phát hành lẫn nhà đầu tư. Nguyên nhân là do sự tham gia của doanh nghiệp vào thị trường trái phiếu, bên cạnh thị trường TPCP, với tư cách là nhà tổ chức phát hành hoặc nhà đầu tư sẽ giúp thị trường thể hiện được vai trò là nguồn cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua đầu tư công và đầu tư tư nhân. Nếu nhìn rộng ra phạm vi khu vực châu Á, có thể thấy, tại các quốc gia có thị trường vốn phát triển đều có một thị trường bộ phận về TPDN phát triển tương xứng, thể hiện qua tỷ trọng TPDN trong quy mô phát hành và dư nợ của thị trường. Đơn cử như, tại Hàn Quốc, M-lai-xi-a hay Xin-ga-po, thị trường TPDN đều có mức tỷ trọng khá lớn so với tổng quy mô của thị trường (Tính đến tháng 12/2014 dư nợ TPDN tại Ma-lai-xi-a, Hàn Quốc, Xin-ga-po lần lượt chiếm 42,42,7% GDP, 71,9% GDP và 32,1% GDP) [62].
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
3.1. Môi trường kinh tế – tài chính vĩ mô
Ở khía cạnh tổng quát, môi trường kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng sâu rộng đến mọi hoạt động của nền kinh tế. Khi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, kinh tế phát triển, lạm phát được kiềm chế thì việc thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư đối với trái phiếu sẽ càng dễ dàng hơn. Nội dung này được thể hiện ở ba khía cạnh cơ bản:
Đối với doanh nghiệp phát hành, khi hoạt động trong một môi trường kinh tế – tài chính ổn định và thuận lợi, tất yếu doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mình. Các chính sách quản lý kinh tế – tài chính vĩ mô có sự tác động trực tiếp đến từng chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Do vậy, nếu môi trường kinh tế – tài chính thuận lợi sẽ tạo ra sức cộng hưởng lớn đối với kết quả mà doanh nghiệp đạt được. Hệ quả tất yếu là khả năng thanh khoản và uy tín của doanh nghiệp tăng lên, tạo điều kiện thu hút nhà đầu tư bỏ vốn cho trái phiếu mà doanh nghiệp sẽ phát hành.
Đối với nhà đầu tư, khi môi trường kinh tế – tài chính thuận lợi, nền kinh tế phát triển ổn định đồng nghĩa với thu nhập của cá nhân, tổ chức ngày càng tăng. Lúc này sẽ phát sinh nhu cầu đầu tư nhằm tối đa hóa lợi nhuận từ những đồng tiền nhàn rỗi. Do đó sẽ càng tạo nên sự sôi động trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trường TPDN nói riêng.
Cuối cùng là những tác động đến thị trường chứng khoán. Một môi trường kinh tế – tài chính vĩ mô ổn định, lành mạnh và phù hợp với tình hình phát triển trong từng thời kỳ sẽ là nhân tố quan trọng hỗ trợ và tạo đà cho sự phát triển sôi động của thị trường chứng khoán. Nhờ đó mà hoạt động trao đổi, mua bán chứng khoán được diễn ra an toàn, thuận lợi, tạo ra sức hút lớn đối với giới đầu tư là cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
3.2. Môi trường pháp lý
Để thị trường TPDN có thể hoạt động ổn định và phát triển thì điều kiện tiên quyết là phải có một khuôn khổ pháp lý phù hợp, có tính thống nhất cao và toàn diện, có sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo cho thị trường hoạt động theo đúng những nguyên tắc và mục tiêu đã định.
Môi trường pháp lý để quản lý thị trường bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật, hệ thống các cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan kiểm soát. Trong đó hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của thị trường tài chính đóng vai trò rất quan trọng, chứa đựng những nội dung quy định về hoạt động đầu tư, quản lý, kiểm soát và điều tiết thị trường (bao gồm Luật, Pháp lệnh, Thông tư, Nghị định, Quy chế hướng dẫn thực hiện…). Hệ thống các văn bản này tạo ra hành lang pháp lý cho các cá nhân, tổ chức và những người có liên quan tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán nói chung và thị trường TPDN nói riêng. Hệ thống này được xây dựng hợp lý sẽ khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia vào thị trường, ngược lại, nếu không phù hợp sẽ tạo ra sức kìm hãm sự phát triển của thị trường.
Việc thực thi các văn bản pháp luật cũng ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường chứng khoán. Nếu thực thi nghiêm ngặt sẽ hạn chế được những hành vi gian lận, gây thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, từ đó giúp cho thị trường hoạt động an toàn và hiệu quả, tạo ra sự công bằng, công khai trên thị trường và góp phần thúc đẩy đầu tư và phát triển.
3.3. Tiềm lực vốn của các nhà đầu tư và sự phát triển của các định chế tài chính trung gian
Nói đến đầu tư trước hết là phải nói đến vốn, đến tiềm lực về tài chính của những chủ thể tham gia bỏ vốn để mua các loại trái phiếu do doanh nghiệp phát hành. Một khi tiềm lực vốn của các nhà đầu tư (gồm tổ chức và cá nhân) đủ mạnh thì việc đầu tư vào thị trường trái phiếu sẽ ổn định và vững chắc hơn. Nhà đầu tư có nguồn vốn dồi dào sẽ có đủ khả năng đối chọi với những rủi ro có thể nảy sinh từ thị trường, đồng thời họ có thể mở rộng quy mô đầu tư, tạo ra sự đa dạng và sôi động trong mua bán, trao đổi các loại trái phiếu trên thị trường.
Các định chế tài chính trung gian không chỉ là các chủ thể tham gia thị trường thông thường mà còn tham gia với nhiều tư cách khác nhau: Nhà tạo lập thị trường, người tạo thuận lợi cho thị trường… Chính vì vậy, khi các định chế tài chính trung gian này có đủ năng lực hoạt động (về vốn, công nghệ, thông tin, lao động…) sẽ là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ổn định của thị trường trái phiếu.
3.4. Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu
Cũng như đối với thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu cần có điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định để phục vụ cho hoạt động của thị trường như hệ thống lưu ký, giao dịch, thanh toán bù trừ… Cơ sở hạ tầng của thị trường trái phiếu là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động phát hành TPDN, tạo thuận lợi cho hoạt động giao dịch của nhà đầu tư, thuận lợi cho công tác quản lý, kiểm soát của cơ quan chức năng. Do đó, để thị trường trái phiếu hoạt động ổn định và phát triển luôn cần có sự đầu tư nhất định, đồng bộ về cơ sở vật chất kỹ thuật.
3.5. Hệ thống tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm trái phiếu
Đây là hình thức nhằm đánh giá mức độ tín nhiệm của tổ chức phát hành và xếp hạng chúng theo mức độ rủi ro, mất khả năng thanh toán để các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết, trên cơ sở đó đưa ra quyết định đầu tư trái phiếu thích hợp. Người đầu tư vào trái phiếu hoặc người cho vay có thể gặp rủi ro khi người vay mất khả năng thanh toán hay vỡ nợ. Rủi ro này còn được gọi là rủi ro vỡ nợ hay rủi ro tín dụng. Khi chủ thể phát hành trái phiếu trái phiếu ra thị trường, có rất nhiều người đầu tư vào trái phiếu cũng có nghĩa là có rất nhiều người cho vay nhưng phần lớn không biết được tình hình tài chính của chủ thể phát hành trái phiếu. Vì vậy, để hạn chế rủi ro cho người đầu tư vào trái phiếu cần có một tổ chức đứng ra cung cấp thông tin và đánh giá mức độ rủi ro đối với trái phiếu của chủ thể phát hành trái phiếu. Việc đánh giá mức độ rủi ro tín dụng được xác định bằng một hệ số tín nhiệm. Hệ số tín nhiệm là thể hiện sự đánh giá về năng lực thanh toán tiền lãi và vốn vay theo kỳ hạn đã cam kết của chủ thể phát hành trái phiếu trái phiếu. Tại nhiều nước đã hình thành những tổ chức chuyên môn phân tích và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với chủ thể phát hành trái phiếu.
Việc sử dụng hệ số tín nhiệm đã trở thành thông lệ ở nhiều nước và các trung tâm tài chính lớn của thế giới. Tại một số nước, việc đánh giá hệ số tín nhiệm đã trở thành vấn đề pháp lý bắt buộc đối với việc phát hành trái phiếu. Vai trò của hệ số tín nhiệm thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:
Hệ số tín nhiệm cung cấp thông tin cần thiết cho người đầu tư về tình trạng của chủ thể phát hành trái phiếu để lựa chọn khi đầu tư vào trái phiếu một cách thiết thực.
Hệ số tín nhiệm tạo điều kiện cho việc huy động vốn trên thị trường thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. Với việc đánh giá hệ số tín nhiệm, người đầu tư sẽ an tâm, tin tưởng và dễ dàng lựa chọn trái phiếu để đầu tư. Từ đó cũng làm cho chủ thể phát hành trái phiếu dễ dàng tiếp cận các nguồn tài chính có thể thực hiện huy động vốn với quy mô lớn và trên phạm vi rộng kể cả huy động vốn từ nước ngoài.
Hệ số tín nhiệm góp phần quan trọng vào việc giảm bớt chi phí sử dụng vốn cho chủ thể phát hành trái phiếu. Khi một chủ thể phát hành trái phiếu có uy tín thì với việc đánh giá hệ số tín nhiệm sẽ giúp cho việc huy động vốn qua việc phát hành trái phiếu thuận lợi, dễ dàng đồng thời giảm được chi phí huy động vốn. Với chủ thể phát hành trái phiếu có uy tín, hệ số tín nhiệm sẽ đạt được được ở mức độ cao và như vậy, chủ thể phát hành trái phiếu có thể phát hành trái phiếu với mức lãi suất thấp hơn vẫn thu hút được nhiều người đầu tư.
Hệ số tín nhiệm thúc đẩy chủ thể phát hành trái phiếu nâng cao hơn trách nhiệm đối với người đầu tư. Việc đánh giá hệ số tín nhiệm liên quan chặt chẽ đến uy tín của chủ thể phát hành trái phiếu, điều đó thúc đẩy chủ thể phát hành trái phiếu thực hiện tốt hơn các cam kết đối với người đầu tư trong việc đảm bảo thanh toán tiền lãi vay và tiền vốn vay.
4. Vai trò của thị trường trái phiếu doanh nghiệp
Thị trường TPDN có vai trò tạo ra một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp. Việc xây dựng và phát triển thị trường TPDN có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của thị trường tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Đối với toàn bộ nền kinh tế, thị trường TPDN có vai trò khuyến khích tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn đầu tư trong xã hội. Phát hành TPDN ra thị trường sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức, các tầng lớp dân cư có thêm nhiều cơ hội đầu tư, góp phần tạo thói quen đầu tư, kinh doanh chứng khoán, thúc đẩy sự hình thành và phát triển các định chế tài chính trung gian. Thị trường TPDN là nơi khơi thông các nguồn vốn trong xã hội, tạo điều kiện tích tụ các nguồn vốn nhỏ thành nguồn vốn lớn, biến nguồn vốn ngắn hạn thành nguồn vốn dài hạn.
Đối với các doanh nghiệp, thị trường trái phiếu tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với một kênh huy động vốn mới linh hoạt và có hiệu quả hơn, song song với hoạt động vay ngân hàng và phát hành cổ phiếu. Đồng thời, khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu sẽ có cơ hội để tái cơ cấu lại nguồn vốn, giúp gia tăng lợi ích của nhà đầu tư và bản thân doanh nghiệp trong tương lai. Mặt khác, thị trường TPDN còn giúp doanh nghiệp có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình nhằm gia tăng lợi nhuận, sử dụng hiệu quả, triệt để lượng vốn mà doanh nghiệp nắm giữ. Cụ thể:
Trái phiếu là công cụ cho phép doanh nghiệp huy động vốn vay trung và dài hạn với khối lượng lớn qua thị trường.
So với vay ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, huy động vốn qua trái phiếu có một số ưu điểm như không cần có tài sản thế chấp và được chủ động sử dụng số tiền huy động mà không có sự giám sát của ngân hàng và của trung gian tài chính trong việc sử dụng vốn vay. Mặt khác, vay vốn dài hạn của ngân hàng thương mại chỉ có giới hạn nhất định, bởi lẽ ngân hàng thương mại cũng là người đi vay để cho vay, vì thế ngân hàng thương mại chủ yếu cho các doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn. Ngoài ra, thủ tục để được vay vốn cũng rất phức tạp và đôi khi khiến cho doanh nghiệp lỡ mất cơ hội kinh doanh của mình. Do vậy, khi doanh nghiệp có nhu cầu huy động vốn vay trung và dài hạn với quy mô lớn thì phát hành trái phiếu sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí huy động hơn là đi vay ngân hàng.
Huy động vốn bằng trái phiếu là sử dụng đòn bẩy tài chính có thể giúp doanh nghiệp gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Sử dụng trái phiếu là một cách vay vốn cho phép doanh nghiệp có thể gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Bởi lẽ:
– Lợi tức trái phiếu được khấu trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của DN. Khi công ty sử dụng trái phiếu hay sử dụng vốn vay nói chung, lãi tiền vay phải trả được coi là một khoản chi phí hợp lý và được trừ vào phần thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp. Như vậy, công ty phải nộp thuế thu nhập ít hơn so với trường hợp sử dụng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu như huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu. Đây là một lợi ích chủ yếu của việc sử dụng vốn vay nói chung cũng như sử dụng trái phiếu. Khoản thuế thu nhập công ty phải nộp ít hơn là khoản tiết kiệm thuế hay “lá chắn thuế từ lãi vay” và được xác định như sau:
Lợi thuế do lãi vay = Lãi vay phải trả x thuế suất thuế TNDN
Có khả năng làm khuếch đại được tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu khi gia tăng tác động của đòn bẩy tài chính qua việc sử dụng vốn vay trong đó có phát hành trái phiếu [4].
Khi tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản lớn hơn lãi suất vay vốn (BEP > r), thì doanh nghiệp càng vay nợ nhiều, tức doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính lớn, thì đòn bẩy tài chính càng làm khuếch đại được tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) của doanh nghiệp nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro tài chính. Ngược lại, nếu tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản nhỏ hơn lãi suất vay vốn (BEP < r), doanh nghiệp càng vay nợ nhiều sẽ là bất lợi bởi đòn bẩy tài chính càng làm sụt giảm nhanh hơn tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và rủi ro tài chính lúc này sẽ tăng vọt so với doanh nghiệp không đi vay vốn. Còn trong trường hợp BEP= r, thì tuy ROE không phụ thuộc vào cơ cấu vay nợ nhưng rủi ro tài chính của công ty vẫn phụ thuộc vào mức độ vay nợ.
Như vậy, việc đẩy mạnh sử dụng vốn trái phiếu cũng là hình thức sử dụng vốn vay nên tất yếu sẽ làm nảy sinh rủi ro tài chính. Vì vậy, nhà quản trị doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc thù của ngành, lĩnh vực kinh doanh để đưa ra quyết định huy động vốn cho phù hợp.
Chi phí sử dụng trái phiếu thường thấp hơn so với các nguồn tài trợ khác thể hiện đó là một trong những ưu thế của huy động vốn TPDN là tiền lãi vay phải trả cho nhà đầu tư được coi như là khoản chi phí hợp lý được tính trừ vào thu nhập chịu thuế. Trong khi đó, nếu công ty cổ phần huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi thì cổ tức là phần trả cho nhà đầu tư là lấy từ lợi nhuận sau thuế. Do đó chi phí sử dụng trái phiếu thấp hơn so với vốn huy động từ chứng khoán khác. Do vậy, với chi phí sử dụng vốn vay cần xem xét cả hai trường hợp là: chi phí sử dụng vốn vay trước thuế và chi phí sử dụng vốn vay sau thuế.
Chủ sở hữu doanh nghiệp không bị chia sẻ quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp cho trái chủ.
Khi doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nhà đầu tư mua trái phiếu này sẽ là chủ nợ của doanh nghiệp, vì vậy trái chủ không có quyền biểu quyết và tham gia quản lý, điều này khác hẳn so với huy động vốn từ phát hành cổ phiếu cho các cổ đông mới. Do đó, việc phát hành trái phiếu để huy động tăng vốn không ảnh hưởng tới quyền sở hữu và quyền quản lý và kiểm soát doanh nghiệp của các chủ sở hữu doanh nghiệp hiện hành.
Giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn linh hoạt.
Khi hoạt động kinh doanh có triển vọng tốt, doanh nghiệp có thể tăng huy động vốn vay từ phát hành trái phiếu nhằm mở rộng thị trường và gia tăng tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu. Ngược lại, khi thị trường biến động theo chiều hướng bất lợi, để thu hẹp quy mô kinh doanh, doanh nghiệp có thể chủ động giảm vốn bằng cách mua lại trái phiếu trước thời hạn (nếu doanh nghiệp phát hành loại trái phiếu có thể mua lại). Ngoài ra, trong trường hợp dòng tiền của doanh nghiệp đang khá dồi dào thì việc mua lại trái phiếu trước hạn nhằm giảm bớt áp lực thanh toán khi đến hạn cũng là giải pháp hợp lý nhằm tái cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Vì vậy, trái phiếu được doanh nghiệp sử dụng linh hoạt trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn kinh doanh, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Đối với công chúng đầu tư, thị trường TPDN giúp công chúng sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tiền của mình. Khi có nguồn tiền nhàn rỗi, người dân có thể gửi tiết kiệm hoặc mua trái phiếu để thu lời. Với việc cung cấp các công cụ đầu tư có hiệu quả, thị trường TPDN góp phần nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư nói riêng và của toàn xã hội nói chung.
Để lại một bình luận