Trong bài viết dưới đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung lý luận về xuất khẩu và các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu.
1. Những vấn đề lý luận về xuất khẩu
1.1. Khái niệm về xuất khẩu
Theo lý thuyết về thương mại quốc tế cổ điển, khi phân công lao động xã hội đạt được mức độ nhất định, chuyên môn hóa sản xuất được thực hiện cho phép tạo ra năng suất cao hơn, hàng hóa ngày càng nhiều không chỉ đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước mà tất yếu sẽ dẫn tới sự trao đổi hàng hóa ra bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia. Như vậy, thực chất xuất khẩu chính là sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, có nhiều cách hiểu khác nhau về xuất khẩu như:
Theo Thư viện Học liệu Mở Việt Nam (VOER), xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, nó đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển. Từ hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn.
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất hàng hoá mở rộng, mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt, mà có sự tham gia của toàn bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của nhà nước. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội của một nước phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xuất khẩu. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước có trình độ kinh tế còn thấp như nước ta, những yếu tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những yếu tố thiếu hụt như vốn, thị trường và khả năng quản lý. Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở của nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giàu.
Như vậy, xém xét một cách tổng quát thì hoạt động xuất khẩu: trước hết, là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ của một quốc gia với các quốc gia khác trên thế giới dưới hình thức mua bán thông qua các quan hệ thị trường. Tiếp đến, xuất khẩu nhằm mục đích thu ngoại tệ, tăng tích lũy cho ngân sách nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác ưu thế tiềm năng đất nước và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân.
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Các hình thức của xuất khẩu
Xuất khẩu trực tiếp
Là hình thức xuất khẩu, trong đó người bán và người mua quan hệ trực tiếp với nhau (bằng cách gặp mặt, qua thư từ, điện tín) để bàn bạc thỏa thuận về hàng hóa, giá cả và các điều kiện giao dịch khác.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được cao hơn các hình thức khác do không phải qua khâu trung gian. Trong điều kiện thương mại quốc tế hiện đại như hiện nay, với vai trò bán hàng trực tiếp người bán có thể nâng cao uy tín của mình thông qua việc đảm bảo quy cách, chất lượng hàng hóa cũng như việc đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người mua. Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi người bán cần có sự nhanh nhạy về thông tin (thị trường, giá cả, hàng rào phi thuế quan,…) đồng thời trong quá trình bán hàng cũng có thể gặp những rủi ro như bên mua hàng thanh toán chậm hoặc tỷ giá thay đổi,…
Xuất khẩu qua trung gian
Là hình thức mua bán trên phạm vi quốc tế được thực hiện nhờ sự giúp đỡ của nhân tố trung gian thứ ba và nhân tố này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định từ hoạt động mua bán trên. Nhân tố trung gian phổ biến trong các giao dịch quốc tế là đại lý và môi giới.
Hình thức này sẽ làm giảm lợi nhuận của người bán do phải trả cho nhân tố trung gian. Tuy nhiên, đây là hình thức được sử dụng khá phổ hiện nay tại nhiều quốc gia đặc biệt là những nước kém và đang phát triển vì các nhân tố trung gian thường hiểu biết rõ hơn về thị trường (nhu cầu, thị hiếu, đặc điểm,…) nên cơ hội thu được lợi nhuận cao sẽ nhiều hơn.
Hình thức tái xuất khẩu
Là hình thức thực hiện xuất khẩu trở lại sang các nước mua khác những hàng hóa đã mua mà chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Mục đích của thực hiện giao dịch tái xuất khẩu là mua hàng hóa ở nước này rồi bán với giá cao hơn ở nước khác và thu về số tiền lớn hơn số vốn đã bỏ ra ban đầu.
Hoạt động tái xuất khẩu có thể chia làm hai hình thức: hình thức tạm nhập -tái xuất và hình thức chuyển khẩu, trong đó:
Hình thức tạm nhập – tái xuất được hiểu là việc thương nhân của nước A mua hàng hóa của nước B để bán cho nước C trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương và có làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa vào nước A. Sau đó, chính hàng hóa này lại được làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi nước A mà không qua gia công chế biến. Hình thức này có ưu điểm là thu lợi nhuận cao trong khi không cần bỏ chi phí đầu tư (máy móc, thiết bị) mà khả năng thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ thì hình thức này cũng chỉ phù hợp với một số mặt hàng nhất định.
Hình thức chuyển khẩu được chia thành hai loại. Một là, hàng hóa sau khi nhập cảnh được cơ quan hải quan cho vận chuyển đến một địa điểm hải quan khác để làm thủ tục hải quan nhập khẩu. Hai là, hàng hóa ở nơi vận chuyển ban đầu đã làm thủ tục hải quan xuất nhập khẩu vận chuyển đến một nơi xuất cảnh, do hải quan nơi xuất cảnh giám sát quản lý cho qua. Hình thức này có ưu điểm là không phải bỏ ra chi phí đầu tư ban đầu song về thủ tục pháp lý khá phức tạp. Đó là trong toàn bộ quá trình giao dịch luôn có hai hợp đồng riêng biệt là hợp đồng mua hàng (do đại diện của Việt Nam ký với nước xuất khẩu) và hợp đồng bán hàng (do đại diện của Việt Nam ký với nước nhập khẩu).
1.3. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế
Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước Samuelson cho rằng các nước đang phát triển đều vướng phải cái “vòng luẩn quẩn” của sự đói nghèo. Vì vậy để phá vỡ cái “vòng luẩn quẩn” cần phải có một “cú huých” từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển bước vào giai đoạn cất cánh. Vận dụng lý thuyết này, các quốc gia muốn đạt mức tăng trưởng kinh tế thì cần có một cú huých từ bên ngoài như: yếu tố về vốn, công nghệ, chuyên gia,…Trong đó nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ CNH-HĐH đất nước là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Để thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu là: vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Trên thực tế, nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu theo đó cũng tăng theo. Ngược lại, nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu sẽ làm cho thâm hụt cán cân thương mại quá lớn có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình CNH-HĐH phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này thể hiện:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Điển hình khi phát triển ngành dệt xuất khẩu sẽ tạo cơ hội đầy đủ cho việc phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm,…
Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, góp phần cho sản xuất ổn định và phát triển sản xuất trong nước.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Thứ ba, xuất khẩu có vai trò thúc đẩy đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại
Năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và giá cả. Qua quá trình xuất khẩu, hàng hóa các nước sẽ chính thức tham gia vào cuộc canh tranh trên thị trường quốc tế. Toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại có tác động sâu sắc và toàn diện, chính vì vậy mỗi quốc gia, mỗi ngành khi tham gia thương mại quốc tế tức là đã tham gia một sân chơi với áp lực cạnh tranh rất lớn. Cạnh tranh buộc nền sản xuất trong nước phải đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất hiện đại hơn, đòi hỏi năng lực sản xuất, phát triển để thích nghi, xúc tiến mở rộng thị trường.
Thứ tư, xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân
Xuất khẩu ngày càng mở rộng thì hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu càng phát triển, góp phần tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập cao góp phần cải thiện đời sống cho người lao động. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những vật liệu tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu ngày một phong phú hơn của nhân dân. Ngoài ra, đẩy mạnh xuất khẩu còn có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong nước cả về tính chất ngành nghề và cả về chất lượng lao động, lao động được sử dụng hợp lý góp phần phân bổ lực lượng lao động một cách có hiệu quả qua đó giúp nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu quả hơn.
Thứ năm, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại
Quá trình tích cực, chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế giúp các nước đang phát triển có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu dựa trên những lợi thế cạnh tranh: nguồn tài nguyên phong phú, nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và sự ổn định chính trị và kinh tế – xã hội,… Nhờ đó, hoạt động xuất khẩu đã không ngừng tăng trưởng về quy mô và tốc độ, cũng như mặt hàng xuất khẩu chủ lực và trở thành động lực chính quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của quốc gia trên thương trường quốc tế. Xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu. Thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. Đặc biệt khi xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển.
1.4. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá xuất khẩu của một quốc gia
Nhóm tiêu chí phản ánh quy mô xuất khẩu
Chỉ tiêu về kim ngạch xuất khẩu: là số tiền thu được từ hoạt động xuất khẩu của một quốc gia sang một thị trường cụ thể trong một khoảng thời gian xác định.
Chỉ tiêu về khối lượng xuất khẩu: phản ánh quy mô về số lượng xuất khẩu sang một thị trường cụ thể của một quốc gia trong một khoảng thời gian xác định.
Nhóm tiêu chí đánh giá trình độ xuất khẩu
Chỉ tiêu lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed Comparative Advantage-RCA)
Theo học thuyết của Hecksher-Ohlin (H-O), lợi thế so sánh của một quốc gia được xác định bởi sự khan hiếm tương đối các yếu tố sản xuất của quốc gia đó (đó là tỷ số về trang bị yếu tố sản xuất của quốc gia đó so với trang bị yếu tố sản xuất của phần còn lại thế giới hoặc của một nhóm các quốc gia). Tuy nhiên, việc đo lường lợi thế so sánh và kiểm chứng học thuyết H-O vấp phải một số khó khăn do giá cả tương đối trong điều kiện nền kinh tế đóng là không thể quan sát. Vì thế, Balassa (1965) đề xuất rằng không nhất thiết phải xét tới mọi yếu tố ảnh hưởng tới lợi thế so sánh của quốc gia. Thay vào đó, ông gợi ý tính toán lợi thế so sánh “biểu hiện” dựa trên những yếu tố thương mại quan sát được. Trên thực tế, đây là một phương pháp được công nhận rộng rãi để phân tích các số liệu thương mại. Balassa (1965) xây dựng một chỉ số (được gọi là chỉ số Balassa) nhằm đo lường lợi thế so sánh của một quốc gia. Chỉ số Balassa chỉ xác định được một quốc gia có lợi thế so sánh hiện hay không, chứ không xác định được nguồn gốc của những lợi thế so sánh này. Theo Balassa, các sản phẩm xuất khẩu chủ lực của một nước thường là các sản phẩm mà nước đó có lợi thế so sánh. Nói cách khác, lợi thế so sánh của một nước sẽ được biểu hiện qua cơ cấu xuất khẩu sản phẩm của nước đó và được xác định bằng cách so sánh tỷ trọng xuất khẩu của ngành hàng (sản phẩm) nào đó trong cơ cấu xuất khẩu của một nước và tỷ trọng trong cơ cấu xuất khẩu của thế giới.
2. Những vấn đề lý luận về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của quốc gia
Thương mại quốc tế của một quốc gia được đặc trưng bởi hai hoạt động cơ bản là xuất khẩu và nhập khẩu, đây chính là nền tảng chính tạo nên quá trình trao đổi qua lại giữa các quốc gia với nhau. Thực tế cho thấy, khi hai nước A và nước B có quan hệ trao đổi thương mại với nhau thì lượng hàng hóa của nước A xuất sang nước B cũng chính là lượng hàng hóa của nước B nhập khẩu từ nước A. Vì vậy, khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của một nước nó sẽ bao hàm cả những yếu tố tác động tới xuất khẩu của nước đó và những yếu tố tác động tới nhập khẩu của nước đối tác. Cơ sở lý thuyết quan trọng nhất đặt nền móng cho nghiên cứu này chính là nghiên cứu của Anderson (1979) với mô hình tác động từ phía cầu (tức là các yếu tố tác động từ phía cầu hàng hóa). Mô hình này là cơ sở cho các mô hình tiếp theo với điểm chung là luồng thương mại được xác định từ phía cầu. Mô hình này dựa trên giả định về chuyên môn hóa của các quốc gia. Với cách tiếp cận mới, Eaton và Kortum (2002) đã đưa ra mô hình tác động từ phía cung, nghiên cứu chỉ ra các quốc gia có trình độ công nghệ khác nhau tạo ra năng suất sản xuất hàng hóa khác nhau. Bổ sung thêm lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu của một quốc gia có nghiên cứu của Chaney (2008); Melitz và Ottaviani (2008) khi cho rằng luồng thương mại giữa hai nước cũng chịu tác động của các yếu tố cản trở/hấp dẫn thương mại.
Như vậy, luồng trao đổi thương mại giữa hai quốc gia chịu tác động của 3 nhóm yếu tố: nhóm yếu tố tác động từ phía cung, nhóm yếu tố tác động từ phía cầu, nhóm yếu tố cản trở/hấp dẫn thương mại. Về mặt lý thuyết, luồng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN cũng chịu tác động của 3 nhóm yếu tố này.
Trong đó, nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cung của nước xuất khẩu: sự phát triển của nền kinh tế trong nước (quy mô nền kinh tế – GDP), quy mô dân số, chính sách của nhà nước trong hoạt động xuất nhập khẩu; nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cầu của nước nhập khẩu (thể hiện sức mua của thị trường nước nhập khẩu) bao gồm quy mô dân số, quy mô nền kinh tế (GDP); nhóm các nhân tố hấp dẫn/cản trở bao gồm chất lượng hàng xuất khẩu, hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan, chung đường biên giới, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu, sự kết nối hệ thống logistics của Việt Nam với khu vực, lợi thế so sánh, khoảng cách giữa hai quốc gia, mức độ hội nhập khu vực và mạng sản xuất khu vực, quan hệ thương mại với các nước trong khu vực. Cả ba nhóm nhân tố trên có vai trò rất quan trọng trong hoạt động trao đổi, lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia, chúng vừa có tác động hút (nước nhập khẩu) và cũng có tác động đẩy (nước xuất khẩu) giúp quá trình lưu thông hàng hóa diễn ra nhanh và hiệu quả hơn.
2.1. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cung
Quy mô nền kinh tế (GDP) của nước xuất khẩu
Khi xét yếu tố thu nhập của nước xuất khẩu có thể xét đến giá trị tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Ở đây, giá trị này sẽ được đại diện cho yếu tố cung hàng xuất khẩu.
Về cơ bản, khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong lãnh thổ của một nước tăng lên sẽ đồng nghĩa với lượng cung hàng của nước đó tăng lên và nước đó có cơ hội xuất khẩu nhiều hơn.
Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của yếu tố giá trị sản xuất xuất khẩu trong các nền kinh tế là khác nhau: đối với những nền kinh tế lấy xuất khẩu làm động lực thì xuất khẩu và thu nhập quốc dân có mối liên hệ chặt chẽ (bởi các ngành sản xuất chính trong nền kinh tế phục vụ cho mục đích xuất khẩu nên khi giá trị sản xuất gia tăng sẽ đồng nghĩa với cung cho xuất khẩu tăng mạnh từ đó thúc đẩy xuất khẩu); đối với những nền kinh tế không hướng theo mục tiêu xuất khẩu thì khi giá trị sản xuất gia tăng lên chưa hẳn đã ảnh hưởng nhiều đến giá trị xuất khẩu hàng hóa.
Nhưng do đặc thù của từng ngành sản xuất nên cơ cấu cũng như tốc độ gia tăng trong cung các nhóm hàng hóa trong nền kinh tế là không đều. Vì thế, khi giá trị sản xuất tăng lên sẽ khiến cho cung xuất khẩu của các mặt hàng tăng lên có sự khác biệt. Hay nói cách khác tác động của yếu tố thu nhập nước xuất khẩu lên xuất khẩu các nhóm hàng khác nhau là khác nhau. Ngược lại với trường hợp khả năng sản xuất gia tăng, khi giá trị sản xuất của một quốc gia giảm xuống thì sẽ có những tác động giảm đối với giá trị xuất khẩu hàng hóa.
Dân số nước xuất khẩu
Dân số là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sản xuất của một quốc gia. Mức độ tác động của dân số đến KNXK hàng hóa có thể phân tích ở các góc độ khác nhau:
Ở góc độ nguồn lao động, khi dân số tăng thì quy mô nguồn lao động tăng góp phần tăng khả năng sản xuất và tăng lượng hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, việc tăng lượng hàng hóa xuất khẩu tạo nên sức ép cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhiều hơn. Đây sẽ là nhân tố thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cần phải cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm góp phần làm lượng cung hàng tăng lên và do đó xuất khẩu sẽ có điều kiện phát triển. Bên cạnh đó còn đòi hỏi nguồn lao động không chỉ tăng về mặt số lượng mà còn phải nâng cao về chất lượng. Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, nguồn lao động có trình độ cao sẽ dần thay thế lao động phổ thông. Vì thế, khi xem xét nhân tố này cần có sự kết hợp cả số lượng và chất lượng thì kết quả phản ánh mới đầy đủ và chính xác. Như vậy, ở góc độ này dân số nước xuất khẩu (nguồn lao động) có tác động cùng chiều với KNXK.
Ở một góc độ khác, khi dân số tăng nhanh đại diện cho quy mô thị trường lớn (cầu hàng hóa trong nước tăng) sẽ gây ra ảnh hưởng đến việc bán hàng ra thị trường quốc tế, làm giảm tính năng động của các doanh nghiệp trong nước dẫn đến kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu. Điều này có nghĩa, hoạt động sản xuất chủ yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước (ít quan tâm đến xuất khẩu). Vì thế, trường hợp này dân số có tác động ngược chiều với KNXK hàng hóa.
Như vậy, trên phương diện lý thuyết dân số nước xuất khẩu có thể tác động cùng chiều hoặc ngược chiều với KNXK hàng hóa của một quốc gia.
Công cụ/chính sách hỗ trợ xuất khẩu của Nhà nước
Về mặt lý thuyết, khi hoạt động xuất khẩu được trợ giúp bởi các chính sách hỗ trợ từ phía nhà nước sẽ diễn ra thuận lợi hơn và các doanh nghiệp xuất khẩu được hỗ trợ cũng sẽ tăng sản lượng cung ứng hàng hóa để thực hiện xuất khẩu. Trong nền kinh tế hiện đại, một số chính sách hỗ trợ xuất khẩu của nhà nước có tác dụng tăng cung hàng hóa xuất khẩu như: chính sách tỷ giá, chính sách tín dụng xuất khẩu, chính sách xúc tiến thương mại…Như vậy, vai trò của nhà nước là rất quan trọng trong việc giúp tăng cung hàng xuất khẩu thông qua các chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu.
2.2. Nhóm các yếu tố ảnh hưởng đến cầu
Quy mô nền kinh tế (GDP) của nước nhập khẩu
Xét về nước nhập khẩu, nếu GDP của một nước lớn thường đi kèm với thu nhập của quốc gia đó cao, điều này đồng nghĩa với việc nước đó có khả năng chi trả nhiều hơn cho hàng hóa của các nước khác, điều này khiến cho giá trị xuất khẩu vào nước đó tăng lên.
GDP nước nhập khẩu càng lớn thì khả năng sản xuất của nước đó càng cao, nước đó sẽ càng có khả năng đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong nước và sản xuất được hàng hóa thay thế nhập khẩu. Do vậy sẽ càng gây khó khăn cho các mặt hàng của nước xuất khẩu trong việc xâm nhập thị trường. Không chỉ có thế, tác động của thu nhập quốc dân tới cầu xuất khẩu còn phụ thuộc vào từng loại hàng hóa. Các nhóm hàng khác nhau sẽ có độ co giãn theo thu nhập không giống nhau. Đối với những mặt hàng trở thành hàng hóa thứ cấp khi mức sống tăng cao do thu nhập thì khi thu nhập tăng sẽ chỉ khiến cầu của những hàng hóa này giảm. Đối với hàng hóa thông thường cầu sẽ tăng khi thu nhập tăng lên. Tuy vậy, những mặt hàng cần thiết thì thu nhập tăng cao sẽ chỉ đem đến một mức tăng vừa phải trong khi đối với những hàng hóa xa xỉ, thì thu nhập tăng ở mức cao kéo theo cầu tăng mạnh. Mặc dù vậy, việc hàng hóa nào là xa xỉ, hàng hóa nào là cần thiết hay thứ cấp còn tùy thuộc vào những đặc điểm riêng, sự phù hợp và khác biệt giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu.
Dân số nước nhập khẩu
Tương tự như nghiên cứu với dân số nước xuất khẩu, khi quy mô dân số tăng sẽ kéo theo cầu hàng hóa mà đặc biệt là các mặt hàng thiết yếu tăng lên, gây ra những ảnh hưởng nhất định đến KNXK của quốc gia đối tác. Tuy vậy, mức độ tác động của nhân tố này là cùng chiều hay ngược chiều lại phụ thuộc vào điều kiện cụ thể cũng như chất lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia. Cụ thể: (i) Dân số tăng cũng tức là lượng cầu tăng khiến cho nhu cầu nhập khẩu hàng hóa tăng tức là KNXK của đối tác tăng.
Dân số tăng khiến quy mô lao động trong nước tăng làm tăng khả năng sản xuất dẫn tới tăng quy mô và kết quả sản xuất. Khi đó, sản xuất trong nước cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước dẫn đến KNNK hàng hóa giảm (cũng tức là KNXK của quốc gia đối tác giảm). Qua phân tích trên cho thấy xu hướng tác động của dân số nước nhập khẩu và dân số nước xuất khẩu là giống nhau.
2.3. Các yếu tố cản trở, hấp dẫn
Mức độ hội nhập và tự do hóa thương mại của từng quốc gia
Hội nhập kinh tế quốc tế càng sâu rộng, dù ở cấp độ đơn phương, song phương hay khu vực cũng có tác động lớn đến hoạt động thương mại của một quốc gia trong đó có hoạt động xuất khẩu. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho các quốc gia tận dụng được lợi thế so sánh thông qua buôn bán ngoại thương. Quan hệ giữa hội nhập quốc tế và hoạt động ngoại thương là quan hệ hữu cơ với nhau. Khi hội nhập càng mạnh mẽ thì ngoại thương cần được tự do hoá, xoá bỏ độc quyền. Do đó, hội nhập càng sâu sẽ là cơ hội lớn cho các quốc gia đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và tham gia mạng sản xuất toàn cầu.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước đối tác ASEAN
Thương mại giữa hai nước sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ nếu quan hệ giữa hai nước là dạng quan hệ đối tác chiến lược hay đối tác toàn diện. Đối tác chiến lược mối quan hệ mang tính chất toàn cục, then chốt và có giá trị lâu dài với thời gian. Mối quan hệ gắn liền với nhiều lĩnh vực phát triển cùng có lợi với nhau (quan hệ cùng thắng). Số lượng đối tác chiến lược gia tăng nhanh chóng. Đối tác toàn diện là quan hệ thông thường giữa các nước đã có một hoặc một vài mặt nào đó đạt đến mức chiến lược, nhưng chưa có sự đồng đều giữa các mặt hợp tác. Do sự tin cậy lẫn nhau chưa đủ hoặc thời điểm chưa chín muồi, nên các nước chọn cách xây dựng một khuôn khổ đối tác toàn diện với hàm ý nhấn mạnh mặt hợp tác, tiếp tục củng cố lòng tin và cùng hướng tới tương lai. Hiện nay, trong khu vực ASEAN, Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược với các nước: Indonesia, Thailand, Singapore, Malaysia, Philippines; đối tác toàn diện với Myanmar; và thiết lập một quan hệ đặc biệt thân thiết với Laos và Cambodia. Quan hệ thương mại càng phát triển lên nấc thang cao thì sẽ tạo thuận lợi thương mại thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của hai nước.
Chất lượng hàng xuất khẩu
Về mặt lý thuyết, chất lượng sản phẩm không chỉ thể hiện ở đặc tính cơ lý hóa của bản thân sản phẩm mà nó còn là chất lượng của bao bì, mẫu mã, kiểu dáng và thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. Chất lượng sản phẩm thường đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với chất lượng của dịch vụ đi kèm sản phẩm đó. Trong hoạt động xuất khẩu, chất lượng sản phẩm của mặt hàng xuất khẩu thường bị chi phối bởi các yếu tố: chênh lệch về trình độ công nghệ, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng ở từng khu vực địa lý khác nhau, tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, việc tạo ra một sản phẩm có chất lượng cao, độc đáo và phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người tiêu dùng ở mỗi vùng địa lý khác nhau, đạt tiêu chuẩn quốc tế và có dịch vụ đi kèm tốt sẽ tạo ra một lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động xuất khẩu. Do đó, chất lượng sản phẩm sẽ tác động tới lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng tới thị phần chiếm lĩnh trên thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Các chính sách liên quan đến điều chỉnh rào cản thương mại (thuế quan và phi thuế quan)
Các rào cản thương mại quốc tế bao gồm những biện pháp thuế quan và phi thuế quan, những rào cản này gây ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu một cách rõ rệt. Khi các rào cản thương mại tăng lên như tăng thuế nhập khẩu hay yêu cầu các tiêu chuẩn đối với hàng hóa nhập khẩu cao hơn sẽ dẫn đến việc hạn chế luồng hàng hóa xuất nhập khẩu. Ngược lại, khi các rào cản này giảm đi (khi quốc gia đó tham gia vào các khu vực mậu dịch tự do, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế, giảm thuế, quy định tiêu chuẩn linh hoạt…) sẽ tạo thuận lợi hơn cho thương mại quốc tế, do vậy sẽ thúc đẩy kim ngạch xuất nhập khẩu của một quốc gia.
Hoạt động thương mại biên giới
Thực tế, các quốc gia có chung nhau đường biên giới thì khả năng đẩy mạnh quan hệ thương mại, thúc đẩy xuất nhập khẩu là rất lớn. Các hoạt động thương mại biên giới đã phát triển mạnh và dần trở thành “đòn bẩy” thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng trên những địa bàn biên giới trọng yếu của các quốc gia.
Phương thức hoạt động kinh doanh thương mại biên giới cũng ngày càng đa dạng hơn như: Xuất nhập khẩu trực tiếp, tạm nhập – tái xuất, chuyển khẩu, kho ngoại quan, trao đổi của cư dân biên giới. Cơ cấu hàng hóa thương mại biên giới có nhiều thay đổi theo hướng đa dạng, phong phú. Do vậy, đây là yếu tố khá thuận lợi để các quốc gia là láng giềng của nhau có thể tận dụng đẩy nhanh hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu
Năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao trên thị trường quốc tế. Thực tế, năng lực cạnh tranh càng cao thì khả năng chiến thắng để giành thị phần cung ứng hàng hóa càng lớn. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, vấn đề năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp càng trở nên quan trọng và là yếu tố then chốt trong hoạt động xuất khẩu của các quốc gia. Do vậy, bất kỳ quốc gia nào muốn mở rộng sản xuất, giành lấy lợi thế trong cạnh tranh xuất khẩu thì vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là rất quan trọng.
Khoảng cách giữa các quốc gia
Khoảng cách địa lý giữa hai quốc gia ảnh hưởng tới cước phí vận chuyển, rủi ro trong quá trình vận chuyển… Khoảng cách càng gần thì cước phí càng nhỏ, rủi ro đối với hàng hóa trong quá trình vận chuyển càng giảm, như thế càng góp phần thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Đó là lý do tại sao các nước hay chú trọng đến giao lưu thương mại đối với các nước có cùng đường biên giới hay các nước trong cùng khu vực. Khoảng cách có ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian cũng như phương thức vận chuyển hàng hóa. Do vậy, với từng nhóm hàng khác nhau thì yếu tố khoảng cách cũng có thể gây nên những tác động khác biệt.
Sự phát triển của hệ thống logistics
Dịch vụ logistics (dịch vụ vận tải) có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ, kết nối và phát triển kinh tế – xã hội. Với vai trò xuyên suốt trong toàn bộ quá trình nhập nguyên vật liệu làm đầu vào cho sản xuất, sản xuất ra hàng hóa, đưa hàng hóa vào các kênh lưu thông và phân phối đến tay người tiêu dùng cuối cùng, logistics được coi là xương sống của hoạt động thương mại giữa các nước. Hội nhập dịch vụ logistics được kỳ vọng sẽ là phương tiện để đẩy nhanh hơn nữa tiến trình liên kết giữa các ngành sản xuất trong nội bộ từng quốc gia với mạng sản xuất khu vực. Do vậy, cải thiện chất lượng logistics thương mại sẽ cải thiện được tình hình xuất nhập khẩu, đặc biệt là xuất khẩu.
Mức độ tham gia vào mạng sản xuất khu vực của từng quốc gia
Mạng lưới sản xuất khu vực là một hệ thống các doanh nghiệp nhưng trong phạm vi một khu vực địa lý vượt khỏi biên giới quốc gia. Các doanh nghiệp hợp tác với nhau trong mạng lưới dựa trên sự chuyên môn hóa, phân công lao động quốc tế trong quá trình sản xuất, trong đó các công ty đa quốc gia đóng vai trò trung tâm. Tham gia vào mạng sản xuất khu vực, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội tham gia vào các hoạt động đem lại giá trị cao hơn và đẩy mạnh kết nối giữa doanh nghiệp trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài và thị trường quốc tế có thể giúp các nước chuyển dịch lên tầm cao mới trong các chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.
Ngoài ra, việc tham gia vào mạng sản xuất khu vực cũng thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại, đặc biệt là thương mại nội ngành. Giữa các khâu trong sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau cho dù bị chia tách ra các khu vực địa lý khác nhau, đầu ra của khối sản xuất này sẽ trở thành đầu vào của quá trình sản xuất khác. Để phối hợp hoạt động trong mạng sản xuất, đầu ra của từng khối sản xuất phải được trao đổi với nhau thông qua hoạt động thương mại. Vì vậy, các mạng sản xuất càng phát triển thì trao đổi thương mại giữa các nước càng tăng lên. Như vậy, đây được coi là yếu tố cơ bản thúc đẩy xuất khẩu của một quốc gia nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và sự phát triển của mạng sản xuất toàn cầu cùng với sự dịch chuyển nhanh chóng của dòng vốn FDI.
Lợi thế so sánh trong xuất khẩu
Lợi thế so sánh được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau về mặt lý thuyết do nhận thức và quá trình chứng minh khác nhau. Phát huy lợi thế so sánh là yêu cầu cơ bản của thương mại quốc tế. Lợi thế so sánh bao gồm lợi thế so sánh tự nhiên và lợi thế so sánh tự tạo. Lợi thế so sánh tự nhiên có từ các nguồn lực sẵn có như đất đai, tài nguyên, khoáng sản, lao động và nguồn vốn. Các cơ hội thị trường mở ra cũng có khả năng tạo ra những lợi thế mới. Lợi thế so sánh tự tạo được hình thành từ chính sách đầu tư của chính phủ và doanh nghiệp thông qua chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Tuy nhiên, việc xem xét các yếu tố cấu thành nên lợi thế so sánh còn ở dạng đơn giản là lao động và vốn nói chung mà chưa chỉ ra cụ thể cơ cấu của lao động như lao động phải có tay nghề cao, hàm lượng tri thức lớn đặc biệt là đội ngũ chuyên gia và các doanh nhân giỏi. Bên cạnh đó nguồn vốn đầu tư và công nghệ phải đạt trình độ cao, các loại dịch vụ sản xuất phải đạt trình độ đẳng cấp quốc tế như dịch vụ ngân hàng, tài chính…Cơ sở hạ tầng của sản xuất và thương mại cần đạt đến trình độ cao về giao thông vận tải, viễn thông, thương mại điện tử…để phù hợp với những yêu cầu đặt ra của các giao dịch thương mại quốc tế… Như vậy, việc các quốc gia có thể tận dụng và phát huy tốt những lợi thế so sánh (tự nhiên và tự tạo) của mình sẽ giúp các quốc gia đó nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Đồng thời đây là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến mở rộng thị trường tiêu thụ qua đó góp phần mở rộng quy mô KNXK hàng hóa của một quốc gia.
Như vậy, trên phương diện lý thuyết đây là những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của một quốc gia. Ngoài các nhân tố này, còn một số nhân tố khác có thể nhìn thấy về mặt trực quan mà chưa kiểm nghiệm thực tiễn hoặc đó có thể là các nhân tố mang đặc trưng riêng của khu vực và một quốc gia nhất định nào đó… cũng có thể gây ra ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án chỉ tập trung vào những nhân tố cơ bản, đã được kiểm chứng tương đối rõ ràng cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Để lại một bình luận