Trong bài viết dưới đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về quản lý thu bảo hiểm xã hội bao gồm các khái niệm, công cụ quản lý và tính tất yếu khách quan.
1. Khái niệm và vai trò bảo hiểm xã hội
1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội
Khái niệm về ASXH nói chung và BHXH nói riêng cho đến nay vẫn chưa được thống nhất.
Về khái niệm ASXH, Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng: “An sinh xã hội là những biện pháp công cộng nhằm giúp cho các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh về thu nhập”. “Trên cơ sở đó, ASXH giúp cho hộ gia đình và cộng đồng dễ bị tổn thương có thể hạn chế và làm giảm các tác động tiêu cực bằng nhiều biện pháp công cộng khác nhau.”
Đồng thuận với định nghĩa trên, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) quan niệm: “An sinh xã hội là một hệ thống chính sách công nhằm giảm nhẹ tác động bất lợi của những biến động đối với các hộ gia đình và cá nhân”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào tính dễ bị tổn thương của con người nếu không có an sinh xã hội.
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO): “An sinh xã hội là sự cung cấp phúc lợi cho các hộ gia đình và cá nhân thông qua cơ chế của nhà nước hoặc tập thể nhằm ngăn chặn sự suy giảm mức sống hoặc cải thiện mức sống thấp”. Định nghĩa này nhấn mạnh khía cạnh BHXH và mở rộng tạo việc làm cho những đối tượng ở khu vực kinh tế phi chính thức.
Như vậy, đối tượng, phạm vi của ASXH rộng hơn, tương ứng ASXH bao gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó các quốc gia đều thừa nhận vai trò trụ cột của BHXH; đều xác định BHXH là bộ phận cơ bản và được thực hiện trên cơ sở đóng góp của NLĐ, người SDLĐ.
Theo tổ chức Lao động thế giới ILO, “BHXH là sự bảo vệ của cộng đồng xã hội với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con để ổn định đời sống của các thành và bảo đảm an toàn xã hội”.
Trong Luật Bảo hiểm xã hội, khái niệm về BHXH là: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết”.
Tuy được tiếp cận dưới các góc độ khác nhau nhưng các khái niệm trên đều có những điểm chung giống nhau đó là:
BHXH là một chính sách xã hội được luật hóa tùy theo điều kiện cụ thể của từng nước. Điều này xuất phát từ đặc điểm của thị trường lao động, khả năng của Chính phủ trong việc đảm bảo cân đối quỹ và tổ chức thực hiện chính sách.
NLĐ tham gia BHXH và gia đình họ là những đối tượng trực tiếp được hưởng lợi từ chính sách BHXH, khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra như: bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động do hết tuổi lao động, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…
Để tổ chức và thực hiện được chính sách BHXH phải dựa vào một quỹ tiền tệ do NLĐ, người SDLĐ đóng góp và có sự bảo trợ của Nhà nước.
Mục đích của BHXH là đảm bảo đời sống cho những NLĐ tham gia BHXH và gia đình họ, từ đó góp phần đảm bảo ASXH.”
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Vai trò của bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế
Vai trò của BHXH đối với người lao động
“BHXH góp phần ổn định đời sống cho NLĐ và gia đình họ khi không may NLĐ gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động. Trên cơ sở NLĐ đóng góp đều đặn một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tiền lương, tiền công hàng tháng (cùng với phần đóng của người sử dụng lao động và/hoặc hỗ trợ của Nhà nước) khi NLĐ gặp rủi ro như ốm đau, sinh con, tai nạn lao động, mất việc làm, tử vong…được quỹ BHXH bù đắp một khoản trợ cấp tương quan với mức đóng, thời gian đóng, mức độ rủi ro và khả năng cân đối của quỹ. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất giúp NLĐ nhanh chóng ổn định sức khỏe, ổn định thu nhập; mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn tạo tâm lý yên tâm cho NLĐ trong quá trình làm việc cũng như giảm lo lắng khi gặp rủi ro. Khoản tiền đóng BHXH thường được trích theo lương hàng tháng giúp NLĐ chi tiêu có hiệu quả nguồn thu nhập của mình.”Tham gia BHXH chính là cách NLĐ chủ động dự phòng cho những rủi ro có thể xảy ra trong tương lai của bản thân; thể hiện trách nhiệm với bản thân, trách nhiệm với các thành viên khác trong cộng đồng, và nhận sự tương trợ, chia sẻ của cộng đồng khi gặp rủi ro.
Vai trò của BHXH đối với tổ chức sử dụng lao động
BHXH góp phần giúp ổn định các nguồn lực của quá trình sản xuất: ổn định tài chính, nhân lực và thể hiện trách nhiệm xã hội của người SDLĐ. Trong mối QHLĐ, người SDLĐ là người thuê mướn, trả công cho NLĐ khi NLĐ làm việc cho DN. Khi NLĐ gặp rủi ro trong lao động sản xuất và trong đời sống NLĐ nếu không có BHXH, không có nguồn thu nhập… sẽ ảnh hưởng đến QHLĐ, chất lượng, hiệu quả công việc. BHXH vì thế góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, góp phần ổn định mối quan hệ giữa NLĐ – người SDLĐ, trên cơ sở đó BHXH tác động trực tiếp và gián tiếp đến năng suất lao động (Nuno Cunha, 2018). Về mặt tài chính, BHXH một mặt giúp NLĐ yên tâm làm việc từ đó nâng cao năng suất và chất lượng công việc; tăng thêm lợi nhuận cho người SDLĐ; mặt khác giảm các khoản chi đột xuất khi không may NLĐ gặp rủi ro. Ngoài ra, BHXH tạo điều kiện cho người SDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không chỉ khi trực tiếp SDLĐ mà trong suốt cuộc đời họ.”Điều này tăng uy tín, thương hiệu cho DN; đồng thời là yếu tố giúp DN thu hút, giữ chân lao động.
Vai trò của BHXH đối với xã hội
BHXH làm giảm mâu thuẫn xã hội, tăng cường bản sắc dân tộc, bù đắp cho những khiếm khuyết của thị trường, góp phần ổn định, và thậm chí thường xuyên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (Nuno Cunha, 2018).“BHXH góp phần ổn định xã hội thông qua cơ chế chia sẻ rủi ro của các thành viên cùng đóng góp vào quỹ. BHXH không chỉ bảo vệ cho NLĐ trước hầu hết những rủi ro mà NLĐ gặp phải trong và sau quá trình lao động mà còn thông qua đó bảo vệ cho các thành viên khác trong gia đình họ như người già, trẻ em. Do đó, BHXH là trụ cột của hệ thống ASXH, là cơ sở để phát triển các bộ phận ASXH khác. Căn cứ vào mức độ bao phủ của chính sách BHXH, Nhà nước xác định những đối tượng chưa được tham gia BHXH để thiết kế những mạng lưới khác của ASXH mà dựa trên nguồn NSNN. Nói cách khác, BHXH góp phần giảm chi NSNN. Trên cơ sở đó, BHXH là một trong những căn cứ để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, xã hội, trình độ quản lý rủi ro của một quốc gia.
“BHXH là kênh huy động vốn cho nền kinh tế, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Với nguyên tắc thu trước- chi sau; rủi ro xảy ra đối với NLĐ không đồng loạt cùng thời điểm. Đặc biệt, với các chế độ dài hạn như bảo hiểm hưu trí, phần đóng góp của các bên tham gia được tích luỹ trong thời gian dài tạo thành nguồn tạm thời nhàn rỗi lớn. Nguồn vốn này được đầu tư trở lại nền kinh tế qua các DN, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên.
1.3. Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội
Theo cơ chế “đóng – hưởng”, cân đối thu – chi, để đảm bảo được bù đắp một phần thu nhập khi gặp rủi ro trong quá trình lao động, NLĐ và người SDLĐ phải đóng góp vào quỹ BHXH. Có thể hiểu “Thu BHXH là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép một số đối tượng được tự nguyện tham gia, lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích bảo đảm cho các hoạt động BHXH”
Thu BHXH là cơ sở để đảm bảo sự an toàn, hiệu quả của quỹ BHXH, đảm bảo cho quỹ có khả năng chi trả cho các đối tượng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra và đảm bảo cho hệ thống BHXH hoạt động bình thường.
QLNN về thu BHXH là một trong những điều kiện tiên quyết để hoạt động thu BHXH đạt được hiệu quả cao thông qua việc Nhà nước định hướng, xác định mục tiêu cụ thể phù hợp với mục tiêu chung của chính sách BHXH. QLNN là hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Theo nghĩa rộng, QLNN về thu BHXH là toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, bao gồm cả lập pháp (ban hành văn bản pháp luật về thu BHXH), hành pháp (tổ chức thực hiện BHXH, thanh tra, kiểm tra) và tư pháp (giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm). Theo nghĩa hẹp, QLNN về thu BHXH chỉ bao gồm chức năng hành pháp. QLNN được đề cập trong đề tài này được hiểu theo nghĩa rộng:
“QLNN về thu BHXH là quá trình Nhà nước xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật về thu BHXH; tuyên truyền, phổ biến chính sách; tổ chức bộ máy và quy trình thu BHXH; thanh tra- kiểm tra việc chấp hành thu BHXH nhằm điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thu BHXH”
Để đạt được mục tiêu tăng thu, đảm bảo an toàn và cân đối quỹ BHXH, thu BHXH là mắt xích quan trọng, và Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động quản lý đó. Nhà nước đề ra chính sách thu BHXH, tác động và điều tiết các hoạt động thu của BHXH, đưa hoạt động thu BHXH vào quỹ đạo chung của chính sách BHXH. Việc tăng cường QLNN đối với hoạt động thu BHXH với mục đích tạo ra một cơ chế, chính sách công bằng, dân chủ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ khi tham gia BHXH. ”
2. Công cụ quản lý thu bảo hiểm xã hội đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.1. Nhóm công cụ trực tiếp
Nhà nước can thiệp trực tiếp bằng cách sử dụng các nguồn lực của mình, như công sở và bộ máy Nhà nước, Ngân sách Nhà nước, đất đai và tài nguyên, kết cấu hạ tầng, doanh nghiệp Nhà nước, các ngân hàng thương mại, cơ quan thuế, các đơn vị bảo vệ pháp luật… để tác động lên nền kinh tế. Với BHXH, Nhà nước can thiệp vào mức thu BHXH thông qua chính sách BHXH, chính sách tiền lương tối thiểu; can thiệp vào quá trình tham gia và đóng góp BHXH thông qua các chương trình hỗ trợ mức đóng, điều chỉnh mức hưởng, hoặc qua một số chính sách có liên quan như chính sách thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp…
Các cơ quan thuộc Nhà nước, mà trực tiếp là các cán bộ công chức nhà nước trong các cơ quan QLNN, các công sở và các phương tiện kinh tế- kỹ thuật khác được sử dụng trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước. Như vậy, bộ máy có gọn nhẹ, công chức có trình độ chuyên môn vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp; kết cấu hạ tầng và các phương tiện kinh tế- kỹ thuật khác như hệ thống công nghệ thông tin… có đầy đủ hay không chính là yếu tố quyết định đến hiệu quả của việc thực hiện công cụ này trong quá trình QLNN về thu BHXH.
2.2. Nhóm công cụ gián tiếp
Là nhóm công cụ mà Nhà nước không tác động trực tiếp mà tạo cơ chế để các chủ thể khác nhau trong mối quan hệ BHXH thực hiện. Trước tiên, Nhà nước trước tiên phải bày tỏ cho đối tượng bị quản lý biết mình muốn gì, giúp đối tượng của QLNN biết phải làm gì, làm như thế nào. Và công cụ để thực hiện điều đó là:
Các văn bản có tính kế hoạch: Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án…trong QLNN về thu BHXH là phương án hành động trong tương lai, xác định mục tiêu, chỉ ra phương hướng và các yêu cầu về số lượng, chất lượng quản lý.
Chính sách: Là phương thức hành động hướng tới giải quyết những vấn đề nhất định trong QLNN về thu BHXH. Chính sách định hướng, chỉ dẫn cho quá trình ra quyết định, chỉ ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định.
Hệ thống pháp luật: là cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động liên quan QLNN về thu BHXH bởi pháp luật xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể thu BHXH, mối quan hệ giữa các chủ thể đó với nhau và với Nhà nước.
Công cụ đảm bảo tuân thủ pháp luật, chính sách, kế hoạch đã đề ra.
Sau khi đã thiết lập môi trường, luật lệ, kế hoạch trong QLNN về thu BHXH, công cụ tiếp theo được Nhà nước sử dụng với mục đích thúc đẩy, lôi kéo đối tượng quản lý thực hiện hành vi theo hướng mà mình đã đặt ra, được nhóm công cụ thứ nhất thể hiện. Nói cách khác, công cụ này thúc đẩy đối tượng quản lý tuân thủ pháp luật, hưởng ứng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án do Nhà nước vạch ra bằng cách hai cách cưỡng chế (dùng hình phạt- thiệt hại về tài sản và tự do, tính mạng làm áp lực để đối tượng bị quản lý vì sợ bị thiệt hại mà tuân theo chỉ dẫn, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước) và kích thích (dùng lợi ích làm động lực để làm cho đối tượng bị quản lý vì muốn được lợi mà tuân theo định hướng của Nhà nước).
3. Tính tất yếu khách quan của quản lý thu bảo hiểm xã hội
3.1. Quản lý thu bảo hiểm xã hội đảm bảo quyền lợi cho người lao động
Vai trò của Nhà nước đối với hoạt động thu BHXH đối với DN có vốn ĐTNN là đảm bảo việc cung ứng dịch vụ công trên thị trường cho dù Nhà nước trực tiếp cung ứng hay doanh nghiệp tư nhân cung ứng. Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong phát triển của hệ thống BHXH, không phải chỉ với tư cách là một người trực tiếp tổ chức thực hiện; mà là đối tác, là chất xúc tác và là người tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống phát triển.”
BHXH có thể coi là sản phẩm dịch vụ công đáp ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu chung của NLĐ vì dịch vụ BHXH thỏa mãn các điều kiện của loại hình dịch vụ công và được xếp vào nhóm loại hình dịch vụ công không thuần túy. Điều này được xác định chủ yếu dựa vào mức độ thỏa mãn hai điều kiện: (i) có đặc tính không loại trừ (non-excludable) và không cạnh tranh (non-rival) trong tiêu dùng. Không loại trừ nghĩa là tất cả mọi người đều có quyền sử dụng, tiêu dùng sản phẩm mà không phụ thuộc vào việc họ có trả tiền cho sản phẩm, dịch vụ đó hay không. Không cạnh tranh nghĩa là việc sử dụng, tiêu dùng của người này không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng, tiêu dùng sản phẩm-dịch vụ đó của người khác.
Thêm vào đó, lợi ích của việc tham gia BHXH đã vượt ra ngoài khuôn khổ những người trực tiếp tham gia và hưởng BHXH mà tác động đến thân nhân NLĐ, người SDLĐ và toàn xã hội. Nhà nước không chỉ chịu trách nhiệm thực hiện hoặc tham gia vào việc tổ chức thực hiện thu BHXH; không chỉ quản lý từ khâu ban hành chính sách tới tổ chức thực hiện và kiểm tra, kiểm soát quá trình thu BHXH mà ở mức độ cao hơn còn tiến hành hỗ trợ mức đóng cho người tham gia. Sự hỗ trợ này nhằm mục đích ban đầu là tạo thói quen tham gia BHXH cho NLĐ, sau là thông qua BHXH và NLĐ để hướng tới những thành viên khác trong xã hội.
Nếu không thực hiện BHXH hoặc thực hiện BHXH không tốt, Nhà nước bắt buộc phải sử dụng nguồn NSNN để đảm bảo ASXH. Điều này làm gia tăng gánh nặng cho NSNN, giảm nguồn chi của NSNN cho những vấn đề cấp bách khác, trong khi không tạo cơ chế chia sẻ rủi ro và gắn liền giữa trách nhiệm đóng góp và quyền lợi thụ hưởng của đối tượng tham gia BHXH. Do đó, Nhà nước hoặc trực tiếp tham gia cung ứng hoặc chuyển giao một phần cho khu vực tư nhân bằng cách để khu vực tư nhân thực hiện một khâu trong quá trình thực hiện hoặc một số chế độ BHXH nhất định dưới sự giám sát chặt chẽ của Nhà nước. Đối với những quốc gia Nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ, quá trình từ ban hành văn bản quy định về thu đến tổ chức thực hiện thu được giao cho cơ quan thuế và/hoặc do tổ chức BHXH được Nhà nước thành lập và giao nhiệm vụ tổ chức thu BHXH. Tổ chức BHXH đó có thể thu BHXH của tất cả các đối tượng bao gồm cả doanh nghiệp có vốn ĐTNN; hoặc khối doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thu bởi một cơ quan riêng thuộc tổ chức BHXH. Ngược lại, những quốc gia chuyển giao một phần cho khu vực tư nhân, Nhà nước thông thường đảm nhận vai trò định hướng thông qua ban hành chính sách, pháp luật về thu BHXH; đồng thời kiểm tra, kiểm soát quá trình thu BHXH của khối tư nhân. Dù các quốc gia lựa chọn cách thức thực hiện như thế nào thì vai trò của Nhà nước trong quá trình thu BHXH là không thể thiếu.”
3.2. Quản lý thu bảo hiểm xã hội đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia bảo hiểm xã hội
Để bảo vệ thu nhập cho NLĐ khi gặp rủi ro, trên thế giới có hai mô hình tài chính BHXH: (i) Nhà nước tài trợ toàn bộ thông qua thuế- gọi là phúc lợi xã hội; và NLĐ, người SDLĐ đóng góp- gọi là BHXH. Việc lựa chọn mô hình tài chính nào cũng tồn tại những mâu thuẫn về lợi ích cần cân bằng và mỗi mô hình tương ứng với cách thức can thiệp khác nhau của Nhà nước.
Nhà nước can thiệp trực tiếp- Nhà nước tổ chức thực hiện BHXH: Một số quốc gia coi phúc lợi xã hội là trụ cột của hệ thống ASXH như NewZealand, Australia,…Ở mô hình phúc lợi xã hội, Chính phủ trợ cấp không dựa trên mối quan hệ đóng- hưởng. Khoản trợ cấp này sẽ khiến một bộ phận dân chúng tìm cách hưởng trợ cấp mặc dù thực tế không đủ điều kiện hưởng. Điều này gia tăng áp lực thuế lên phần còn lại của dân số. Đồng thời, NLĐ sẽ cân nhắc giữa việc tiết kiệm cho tuổi già của chính họ hoặc thiển cận hơn là tiêu dùng hết thu nhập khi còn trong độ tuổi lao động và tiếp nhận các khoản trợ cấp từ quỹ phúc lợi (thực chất là từ thuế) khi đến tuổi nghỉ hưu. Trên cơ sở so sánh lợi ích của hai lựa chọn trên, thông thường những người có thu nhập tương đối cao sẽ không bị cám dỗ bởi các khoản trợ cấp phúc lợi. Ngược lại, những người có thu nhập thấp sẽ lựa chọn phương án có lợi hơn bằng cách hưởng trợ cấp từ chương trình phúc lợi mặc dù mức trợ cấp phúc lợi thường ở mức thấp hơn mức tiêu dùng của họ. Vấn đề đặt ra là Chính phủ khó có thể phân biệt được giữa nhóm lao động thiển cận và nhóm lao động trục lợi quỹ. Tất nhiên, về nguyên tắc Chính phủ có thể lựa chọn mức trợ cấp rất thấp để loại bỏ bớt đối tượng có ý định trục lợi quỹ, song điều này thường không được chấp nhận ở những quốc gia phát triển.
Vì lý do cơ bản trên mà hầu hết các quốc gia trên thế giới thiết lập chương trình BHXH theo nguyên tắc đóng- hưởng với vai trò là trụ cột của ASXH. Khác với các chương trình phúc lợi (cũng do Nhà nước thực hiện) với mục đích chính là phân phối lại thu nhập, BHXH thực hiện “chuyển giao” phần thu nhập tương ứng với mức đóng góp vào quỹ và mức độ rủi ro. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước tạo lập quỹ BHXH chủ yếu dựa trên đóng góp mang tính bắt buộc của NLĐ và người SDLĐ. Đồng thời, Nhà nước đóng vai trò là người bảo hộ, hoặc đôi khi là một bên tham gia đóng góp. Tuy nhiên, đối tượng tiếp nhận khoản thu nhập được “chuyển giao” này là NLĐ bị mất việc làm, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động, tàn tật… Thực tế, phần trợ cấp từ quỹ không phụ thuộc vào thu nhập và của cải của người nhận mà phụ thuộc vào những sự kiện, rủi ro mà NLĐ gặp phải. Do đó, có thể coi BHXH là phương tiện để Nhà nước phân phối lại một cách công khai thu nhập xã hội (Rosen, 1992; Stiglitz, 1988). Tuy nhiên, mức lợi ích ASXH cao làm giảm tiết kiệm và có thể gây ra nghỉ hưu sớm, nâng cao tỷ lệ thất nghiệp, tiêu thụ quá mức các dịch vụ chăm sóc y tế, và lấn át BHYT tư nhân.
Nhà nước can thiệp gián tiếp- Phối hợp với khu vực tư nhân, hoặc thành lập tổ chức thực hiện BHXH độc lập.
Vì Nhà nước can thiệp trực tiếp mang lại những tác dụng không mong muốn như trên, do đó một số quốc gia lựa chọn không can thiệp để tránh lãng phí kinh tế hoặc thiết kế lại chương trình BHXH theo hướng chuyển giao một phần hoặc toàn bộ hệ thống cho khu vực tư nhân. Khi đó, Nhà nước đóng vai trò là người quản lý chung, thông qua hệ thống các công cụ: pháp luật, chính sách, kế hoạch hóa, thanh tra- kiểm tra. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các chủ thể liên quan đến BHXH diễn ra phức tạp và đa chiều. NLĐ muốn gia tăng quyền lợi hưởng, giảm thời gian đóng và mức đóng góp vào quỹ, người SDLĐ muốn ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng có thể tiết giảm chi phí, trong khi đó cơ quan BHXH luôn có xu hướng bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách tăng cường thu, tiết kiệm chi… Đứng trên phạm vi toàn xã hội, BHXH được xem xét và đặt trong nhiều mối quan hệ phức tạp như quan hệ phân phối thu nhập, quan hệ sản xuất, tiêu dùng…
Như vậy, dù các quốc gia lựa chọn cách thức can thiệp là trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình thu BHXH của DN có vốn ĐTNN thì vẫn gặp phải vấn đề mâu thuẫn về lợi ích giữa các bên tham gia BHXH. Các DN có vốn ĐTNN đầu tư vào Việt Nam chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực cần sử dụng nhiều lao động trực tiếp cho các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, gia công. Do đó, họ sử dụng số lượng lớn lao động chưa qua đào tạo, dẫn đến mối quan hệ lao động giữa NLĐ với các DN có vốn ĐTNN là không bền thể hiện qua HĐLĐ được ký kết có thời hạn ngắn, thu nhập thường không cao, việc luân chuyển lao động diễn ra thường xuyên. Bản thân những mâu thuẫn này các chủ thể trong mối quan hệ BHXH bao gồm: NLĐ, DN có vốn ĐTNN, tổ chức thực hiện BHXH, Nhà nước… không thể tự giải quyết hay điều chỉnh được, mà cần thiết phải có sự tác động, điều chỉnh của Nhà nước.
3.3. Quản lý nhà nước về thu bảo hiểm xã hội góp phần kịp thời đối phó với những biến động của môi trường.
Một là, những biến động khó kiểm soát của kinh tế làm giảm nguồn thu BHXH. Các nhà khoa học theo trường phái Keynes trong những năm 1940 như Seymour Harris đề cao ảnh hưởng của chương trình BHXH lên nền kinh tế dưới góc độ gia tăng tiết kiệm quốc gia và kích thích tổng cầu. Tuy nhiên, những biến động kinh tế thế giới trong những năm gần đây khiến NLĐ nói chung và NLĐ làm việc trong các DN có vốn ĐTNN nói riêng (i) mất việc làm, phải chuyển việc làm và giảm giờ làm; (ii) bị cạnh tranh về việc làm và khó khăn về đầu ra; và (3) giảm thu nhập. Những ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và việc làm của NLĐ làm giảm số lượng người tham gia và số tiền đóng BHXH đối với cả hai mô hình: đóng BHXH như một khoản thuế và đóng BHXH cho quỹ BHXH. Tự động hóa làm NLĐ làm việc ở một số ngành phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm: Trên 60% lao động ở Indonexia, 73% lao động ngành công nghiệp ô tô ở Thái Lan; 75% lao động ngành điện tử; 86% lao động ngành may mặc và giày dép ở Việt Nam bị rủi ro bởi tự động hóa (Viện khoa học lao động và xã hội, 2017). Thêm vào đó, kinh tế biến động, lạm phát gia tăng làm giảm nhu cầu tiết kiệm trong dân cư và gia tăng áp lực lên Chính phủ trong việc đảm bảo bù đắp lương hưu cho NLĐ do mức đóng lúc này không còn đảm bảo mức hưởng trong tương lai.
Hai là, sự thay đổi của công nghệ làm gia tăng khả năng mở rộng đối tượng tham gia và kiểm soát số thu BHXH. Sự ra đời của máy tính với khả năng lưu trữ vô hạn giúp cho việc quản lý thu BHXH của DN có vốn ĐTNN trở nên dễ dàng hơn và Chính phủ vì thế có thể mở rộng chương trình BHXH cho nhiều đối tượng hơn mà không bị giới hạn bởi khả năng lưu trữ. Nhờ CNTT, những thất bại của thị trường xuất phát từ thông tin bất cân xứng được phần nào khắc phục. Trong đó, BHXH dễ dàng hơn trong việc nắm bắt đối tượng thuộc diện tham gia (công nghệ số hóa làm thay đổi tiền lương thực tế (trả qua hệ thống ngân hàng thay vì trả bằng tiền mặt như trước đây); sự di chuyển lao động (được cập nhật, theo dõi đầy đủ, đảm bảo không gián đoạn quá trình đóng BHXH); phương thức thu nộp tiền BHXH (qua phần mềm, qua hệ thống ngân hàng)…Những thay đổi này của công nghệ đòi hỏi những thay đổi tương ứng trong cách thức quản lý và tổ chức thực hiện.
Ba là, già hóa dân số làm giảm số lượng lao động tham gia đóng góp BHXH trong tương lai. Già hóa dân số làm thay đổi cơ cấu lao động; số người đóng góp vào quỹ có xu hướng giảm đi tương đối so với số người thụ hưởng. “Già hoá dân số là kết quả đồng thời của việc giảm tỷ lệ tử vong, và tăng tuổi thọ” (Lee 2003, McDonald 2004). Đây là một xu hướng nhân khẩu học trên toàn cầu (UNDESA 2002). Đến năm 2050, dự báo dân số thế giới đạt 9,2 tỷ người, trong đó tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên sẽ là 1/5. Tại Việt Nam, theo dự báo đến năm 2050 chỉ còn 2 lao động trong độ tuổi lao động trên 1 lao động từ 60 tuổi trở lên (ILO, 2018).
Bốn là, những quan điểm khác nhau về hiệu quả việc thực hiện chính sách BHXH của Chính phủ. Vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách BHXH tồn tại những quan điểm khác nhau. Chính phủ có can thiệp không, can thiệp như thế nào, mức độ can thiệp ra sao vào hoạt động BHXH? Những câu hỏi này không có câu trả lời nào là đúng hay sai. Mỗi quốc gia đứng trước quyết định có hay không can thiệp vào lĩnh vực BHXH đều có câu trả lời và cách thức thực hiện khác nhau, song đều hướng tới thiết kế và thực hiện chính sách BHXH sao cho hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội từng nước, trong từng giai đoạn phát triển.
Về lý thuyết, khi nền kinh tế bị khủng hoảng do giảm thiểu vai trò điều tiết của nhà nước và gia tăng tính tự do của thị trường thì lý thuyết Keynes được đề cao. Còn khi nền kinh tế trì trệ kéo dài do Nhà nước can thiệp quá mức kìm hãm tính năng động của các lực lượng thị trường thì lúc đó, lý thuyết “bàn tay vô hình” và trường phái Tân cổ điển phục hồi trở lại và chiếm ưu thế [8]. Thực ra, đây là một quá trình điều chỉnh để tái lập sự cân bằng chức năng nhà nước – thị trường trong việc điều hành nền kinh tế.
Trên thực tế, xu hướng toàn cầu hóa và sự trưởng thành của ý thức công dân làm người dân ngày càng có điều kiện trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế, vào quá trình xây dựng và thực hiện chính sách xã hội, do đó làm giảm dần vai trò của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu buông lỏng vai trò và chức năng quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường cũng gây ra những hậu quả to lớn. Trong bối cảnh hiện tại với những vấn đề mới đặt ra như già hóa dân số, kinh tế biến động khó kiểm soát…thì vấn đề liều lượng can thiệp nhà nước – thị trường thế nào là hợp lý vẫn là bài toán chưa có lời giải thỏa đáng. Nếu không thực hiện BHXH hoặc thực hiện BHXH không tốt, Nhà nước bắt buộc phải sử dụng nguồn NSNN để đảm bảo ASXH. Điều này làm gia tăng gánh nặng cho NSNN, giảm nguồn chi của NSNN cho những vấn đề cấp bách khác, trong khi không tạo cơ chế chia sẻ rủi ro và gắn liền giữa trách nhiệm đóng góp và quyền lợi thụ hưởng của đối tượng tham gia BHXH.”
Để lại một bình luận