Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung tổng quan về cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước. Bao gồm: Quan điểm, nội dung, những nhân tố ảnh hưởng và sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế.
1. Quan điểm về cơ chế quản lý tài chính
Khi nói về CCQLTC trước hết phải hiểu cơ chế là gì? Trong đại từ điển kinh tế thị trường có định nghĩa: “Cơ chế là tổng thể các phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng để tác động lên một hệ thống như liên kết, điều hòa, phân phối hoạt động giữa các bộ phận trong hệ thống để đạt được những mục tiêu cuối cùng.” Có nghĩa là cơ chế là cách thức tiến hành lên một chủ thể để đạt được mục tiêu mong muốn. Với cách nhận thức như vậy, tác giả đưa ra định nghĩa về CCQLTC như sau:
CCQLTC là tổng thể những phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng tác động lên hệ thống tài chính nhằm điều hòa, phân phối, liên kết các nguồn lực một cách hiệu quả nhất giúp hoạt động của doanh nghiệp được duy trì và phát triển.
CCQLTC bao gồm bốn nội dung: cơ chế huy động vốn, cơ chế quản lý và sử dụng vốn và tài sản, cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận, cơ chế kiểm soát tài chính.
– Cơ chế huy động vốn bao gồm phương pháp, hình thức, công cụ huy động nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn.
– Cơ chế quản lý, sử dụng vốn và tài sản bao gồm các phương pháp, hình thức cân đối, phân phối và điều hòa sử dụng vốn và tài sản nhằm khai thác hiệu quả tối đa trên chi phí tối thiểu.
– Cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức quản lý lợi nhuận, phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh, hình thành và sử dụng các quỹ tập trung của doanh nghiệp.
– Cơ chế kiểm soát tài chính bao gồm các phương pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiểm soát số liệu về dự toán, quyết toán, kiểm soát nội bộ.
Nước ta có ban hành Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác và thông tư 72/2005/TT-BTC hướng dẫn xây dựng Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con. Sau đó, vì điều kiện và bối cảnh kinh tế không còn phù hợp để áp dụng hai văn bản trên, ngày 5/2/2009 Chính phủ ban hành Nghị định số 09/2009/NĐ-CP quy định mới về việc quản lý cơ chế tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước vào doanh nghiệp khác. Chứng tỏ CCQLTC đóng một vai trò quyết định tới hoạt động của một doanh nghiệp càng quan trọng hơn đối với một TĐKTNN. Có một cơ chế quản lý tài chính phù hợp với mô hình tập đoàn là nền tảng để các tập đoàn phát huy hết sức mạnh tài chính, nguồn lực, công nghệ của mình trong hoạt động SXKD và các hoạt động khác.
2. Nội dung của cơ chế quản lý tài chính
2.1. Cơ chế huy động vốn
Mục tiêu của công tác huy động và sử dụng vốn là không ngừng mở rộng quy mô vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của TĐKT. Khi tập đoàn huy động vốn, tùy vào nhu cầu bù đắp nguồn vốn nào mà tập đoàn quyết định huy động nguồn vốn ngắn hạn hay dài hạn. Quyết định nguồn vốn dài hạn bao gồm những quyết định xem tập đoàn nên huy động bao nhiêu vốn chủ sở hữu và bao nhiêu nợ vay, quyết định xem loại vốn chủ sở hữu nào và loại nợ vay nào tập đoàn nên sử dụng và quyết định khi nào nên huy động các nguồn vốn đó. Quyết định nguồn vốn ngắn hạn, về nguyên tắc chỉ nên đưa ra khi tập đoàn cần đầu tư vào các tài sản lưu động. Huy động nguồn vốn ngắn hạn khi tập đoàn cần đầu tư vào tài sản lưu động thời vụ gồm có:
- Các khoản nợ phải trả người bán
- Các khoản ứng trước của người mua
- Thuế và các khoản phải nộp cho nhà nước
- Các khoản phải trả công nhân viên
- Các khoản phải trả khác
- Vay ngắn hạn từ ngân hàng
Hiện nay, có rất nhiều kênh huy động vốn cho các TĐKTNN cũng như là các doanh nghiệp khác, có thể kể đến những hình thức huy động chủ yếu sau:
Thị trường chứng khoán
Trên thế giới, kênh huy động này đã phát triển từ rất lâu nhưng tại Việt nam mấy năm gần đây mới được các TĐKTNN sử dụng nhiều. Huy động vốn qua TTCK có ưu điểm là huy động nhanh chóng vốn nhàn rỗi từ các nhà đầu tư. Tuy nhiên, hình thức huy động này chiếm một chi phí khá cao, thời gian tích lũy vốn lâu và có nhiều rủi ro. Huy động vốn qua TTCK có thể qua các loại chứng khoán sau:
Thương phiếu: Thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế. Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:
Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, là một mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện, yêu cầu người mua khi nhìn thấy hối phiếu chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.
Trái phiếu công ty: Trái phiếu công ty là công cụ nợ dài hạn do công ty phát hành nhằm huy động vốn dài hạn. Trên trái phiếu bao giờ cũng có ghi một số tiền nhất định, gọi là mệnh giá của trái phiếu. Mệnh giá nói chung (face or par value) tức là giá trị được công bố của tài sản. Trong trường hợp trái phiếu, mệnh giá thường được công bố là 1.000USD hoặc 100.000 đồng như ở Việt Nam. Ngoài việc công bố mệnh giá, người phát hành trái phiếu còn công bố lãi suất của trái phiếu. Lãi suất của trái phiếu (coupon rate) tức là lãi suất mà người mua trái phiếu được hưởng, nó bằng lãi được hưởng chia cho mệnh giá của trái phiếu. Thông qua phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể vay được từ thị trường một khoản vốn khá lớn. Nhờ đó tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ cải thiện đáng kể, tập đoàn sẽ có thêm tiền để đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Có rất nhiều loại trái phiếu, được phân loại theo nhiều căn cứ:
Căn cứ vào thứ tự ưu tiên thanh toán: Trái phiếu cao cấp và trái phiếu thứ cấp
Căn cứ theo lãi suất coupon: lãi suất cố định, lãi suất thay đổi, lãi suất bằng 0.
Liên quan đến việc hoàn trả gốc: trái phiếu có thể thu hồi trước hạn, trái phiếu có thể bán trước hạn cho nhà phát hành, trái phiếu chuyển đổi.
Căn cứ theo tính chất đảm bảo: Bond (loại trái phiếu có tài sản đảm bảo) và Denbenture (loại trái phiếu không có tài sản đảm bảo)
Cổ phiếu: Khác với trái phiếu, cổ phiếu là chứng nhận góp vốn vào công ty cổ phần. Nó là chứng khoán vốn, trong khi trái phiếu là chứng khoán nợ. Theo định nghĩa của pháp luật doanh nghiệp thì: Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu còn được chia thành cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu phổ thông hay còn gọi là cổ phiếu thường. Cổ phiếu thường được xem như là loại cổ phiếu có thu nhập không cố định. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm: Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, Cổ phiếu ưu đãi cổ tức, Cổ phiếu ưu đãi hoàn lại trong đó có cổ phiếu ưu đãi cổ tức có thu nhập cố định.
Phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức : Một TĐKTNN có thể chọn cách phát hành cổ phiếu ưu đãi cổ tức mới để huy động vốn. Những người mua các cổ phiếu này được hưởng mức cổ tức cố định hàng năm và sẽ được điều chỉnh nếu mức chi trả cổ phiếu phổ thông cao hơn. Họ có quyền ưu tiên đặc biệt khi tập đoàn gặp phải khó khăn về tài chính. Nếu lợi nhuận bị hạn chế thì chủ sở hữu cổ phiếu ưu đãi cổ tức sẽ được nhận cổ tức sau trái chủ nhưng trước chủ sở hữu bất kỳ loại cổ phiếu thường nào.
Chào bán cổ phiếu phổ thông: Nếu một TĐKTNN đang ở trong tình trạng tài chính lành mạnh, nó có thể huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu phổ thông của các công ty thành viên hay của chính tập đoàn. Thông thường, các ngân hàng đầu tư giúp các tập đoàn phát hành cổ phiếu, đồng ý mua bất kỳ cổ phần mới nào được phát hành với mức giá đặt trước nếu công chúng từ chối mua cổ phiếu đó với mức giá tối thiểu nhất định. Việc các cổ đông phổ thông có được nhận cổ tức sau khi kết thúc một niên độ kế toán hay không còn phụ thuộc vào chính sách cổ tức của tập đoàn và quyết định của hội đồng quản trị. Mặc dù người giữ cổ phiếu phổ thông có quyền riêng bầu chọn hội đồng quản trị tập đoàn, nhưng họ lại chưa được nhận cổ tức khi đến kỳ phân chia lợi nhuận nếu tập đoàn chưa thanh toán tiền lãi cho các trái chủ và cổ tức ưu đãi cho những người nắm giữ cổ phiếu ưu đãi cổ tức.
Cơ hội huy động vốn bằng cổ phiếu trên thị trường niêm yết phụ thuộc vào quy mô vốn hóa của thị trường, trong đó tốc độ thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp và niêm yết cổ phiếu trên thị trường đóng vai trò quyết định. Quy mô vốn hóa và số lượng công ty niêm yết trên thị trường thay đổi hàng ngày theo hướng càng tăng đã mở ra cơ hội rất lớn cho các nhà đầu tư nói chung và cho hoạt động của doanh nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, số lượng tài khoản giao dịch và khối lượng vốn các nhà đầu tư trong và ngoài nước đổ vào thị trường cổ phiếu cũng tăng theo khiến cho việc tìm kiếm cơ hội huy động vốn trở thành việc cạnh tranh gay gắt.
Huy động vốn tín dụng
Đây là hình thức huy động vốn phổ biến hiện nay bởi thủ tục đơn giản hơn hình thức huy động vốn qua TTCK và tiết kiệm chi phí tuy nhiên các TĐKTNN thường phải có một tài sản đảm bảo cho khoản tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay ( ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (ở đây là các TĐKTNN), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài phần gốc. Các TĐKTNN có thể vay vốn từ các tổ chức khác nhau mà theo đó có các tên gọi khác nhau:
Tín dụng nhà nước: Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng nhà nước có những ưu thế riêng, phát triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn. Hiện tại, hoạt động tín dụng nhà nước do Quỹ hỗ trợ phát triển đảm nhận. Đây là một tổ chức tài chính nhà nước thực hiện việc tài trợ chính sách.
Tín dụng Ngân hàng: Là khoản tín dụng được cấp bởi các ngân hàng thương mại. Căn cứ vào từng đặc điểm của tín dụng, có thể phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào mục đích sử dụng khoản tín dụng: cho vay bất động sản, cho vay công nghiệp và thương mại, cho vay nông nghiệp, cho vay các định chế tài chính, cho vay cá nhân, cho thuê
Căn cứ vào thời hạn cho vay: cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm), cho vay trung hạn (từ 1-5 năm), cho vay dài hạn (từ 5 năm trở lên)
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: cho vay không bảo đảm, cho vay có bảo đảm
Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: cho vay có thời hạn, cho vay không có thời hạn cụ thể
Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: cho vay trực tiếp, cho vay gián tiếp
Tín dụng từ các tổ chức phi ngân hàng và nguồn khác: Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. TĐKTNN có thể huy động vốn từ các tổ chức này với mức lãi suất có thể thấp hơn lãi suất ngân hàng hoặc được hưởng một số ưu đãi khác vì các tổ chức tín dụng này muốn tạo lợi thế cạnh tranh. Mặc dù vậy, đây là một kênh vay vốn còn khá mới mẻ với các TĐKTNN ở Việt Nam.
Huy động nguồn vốn nội bộ
Vốn nội bộ luôn là nguồn vốn có sẵn nhưng dàn trải, không thể huy động bất cứ lúc nào vì thời điểm nhàn rỗi của khoản đầu tư là khác nhau. Tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ tuy không giải quyết được toàn bộ nhu cầu vốn của tập đoàn nhưng được coi là biện pháp chủ động và với chi phí thấp. Hình thức này được huy động theo các cách sau:
Cách 1: Thực hiện tái đầu tư từ khoản lợi nhuận giữ lại. Lợi nhuận thu được được chia ra theo tỷ lệ nào đó và tiếp tục quay vòng vốn, làm tăng vốn chủ sở hữu (VCSH) để tiếp tục các hoạt động kinh doanh. Khi thực hiện cách này còn phải phụ thuộc vào điều lệ của công ty, tình hình kinh doanh các ký trước và sự đồng thuận của các chủ sở hữu công ty.
Cách 2: Lưu chuyển vốn nội bộ từ việc tận dụng tín dụng nội bộ nghĩa là vay của nhân viên trong công ty với lãi suất thấp hơn lãi suất ngân hàng, nhưng bù vào đó công ty sẽ có những chính sách ưu đãi khác bù đắp và khuyến khích nhân viên.
Ngoài ra, trong mô hình TĐKTNN các công ty con có thể kêu gọi sự đầu tư của công ty mẹ dưới hình thức đầu tư thêm vốn hoặc cấp tín dụng.
Cách 3: Thành lập một định chế tài chính với quan hệ là công ty con. Định chế tài chính này có thể là Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng phi ngân hàng như: công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm… Vai trò của định chế tài chính của tập đoàn trong việc điều hoà vốn nội bộ có tầm quan trọng đặc biệt. Khi tồn tại vốn nhàn rỗi, chưa sử dụng đến của một công ty thành viên trong khi các công ty thành viên khác đang có nhu cầu bù đắp vốn thì lúc này vai trò trung gian tài chính của các định chế tài chính, đặc biệt là các công ty tài chính được phát huy cao độ.
Huy động nguồn vốn khác
Ngoài những kênh huy động đã nói ở trên, doanh nghiệp có thể dùng đến các hình thức huy động khác như:
Cho thuê tài chính (cho thuê vốn- Capital leases): là loại cho thuê trung và dài hạn, bên cho thuê là các TĐKTNN, bên đi thuê là các cá nhân, tổ chức khác không được phá hủy hợp đồng. Bên đi thuê chịu trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản. Phần lớn các hợp đồng cho thuê tài chính, bên thuê được quyền gia hạn hợp đồng hoặc được quyền mua đứt tài sản sau khi thời hạn hợp đồng kết thúc. Thực chất cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ vốn cho bên đi thuê, trong đó theo yêu cầu sử dụng của bên đi thuê, các TĐKTNN dùng tài sản có sẵn chuyển giao cho bên đi thuê sử dụng và nhận lại khoản tiền thuê. Nhưng trong ngắn hạn cũng là một kênh cung cấp vốn cho các tập đoàn đang rất cần vốn. Hình thức này thường được áp dụng trong ngành bất động sản hoặc thiết bị sản xuất.
Cho thuê vận hành (Operation leases): Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê hoạt động, tức cho thuê tài sản có thời hạn nhất định (thời gian thuê chỉ chiếm một phần trong khoảng thời gian hữu dụng của tài sản và là ngắn hạn) và sẽ trả lại các TĐKTNN khi kết thúc thời gian thuê tài sản. Các tập đoàn giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng đã thỏa thuận. Tiền thuê hoạt động sẽ giúp các tập đoàn trang trải một số nhu cầu vốn lưu động thiếu hụt. Nhưng hình thức này mang lại số vốn không lớn lại phải trải đều theo các kỳ.
Liên doanh, liên kết sản xuất: là hình thức hợp tác giữa hai chủ thể kinh doanh (có thể trong nước hoặc ngoài nước) bằng cách thành lập 1 pháp nhân mới hoặc chỉ thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh cùng thực hiện những hoạt động kinh doanh hợp pháp để đạt được mục tiêu kinh doanh chung cùng có lợi cho cả hai bên. Nếu TĐKTNN có quy trình kĩ thuật, thương hiệu hoặc nguồn lực chất lượng nhưng lại thiếu tiềm lực về vốn có thể huy động theo hình thức này. Có thể kể đến các kênh như thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), hay kí kết các hợp đồng BOT, BT,… Đây là hình thức biểu hiện tính chất toàn cầu hóa rõ nhất và hiện đang rất được các doanh nghiệp ưa dùng.
2.2. Cơ chế quản lý, sử dụng vốn và tài sản
Quản lý, sử dụng vốn
Vốn sau khi đã được huy động, doanh nghiệp phải lên kế hoạch quản lý, sử dụng vốn sao cho vốn phải sinh lời với tỷ suất sinh lời lớn hơn lãi suất công bố tại ngân hàng. Trước hết vay vốn để bù đắp nhu cầu vốn thiếu hụt trong quá trình SXKD. Sau đó, nguồn vốn dư thừa sẽ được đầu tư vào các kênh khác nhau vì nguyên tắc của một doanh nghiệp là không được để quá nhiều tiền nhàn rỗi. Hiệu quả của việc đầu tư phụ thuộc chủ yếu vào các quyết định sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp. Về cơ bản, quyết định nguồn vốn gồm quyết định nguồn vốn ngắn hạn, quyết định nguồn vốn dài hạn, quyết định quan hệ cơ cấu giữa nợ và vốn chủ sở hữu, quyết định vay để mua hay thuê tài sản. Doanh nghiệp phải quyết định xem nguồn vốn ngắn hạn đầu tư vào kênh nào, nguồn vốn dài hạn sử dụng ra sao để cân bằng nguồn vốn trong doanh nghiệp. Theo mô hình công ty mẹ – công ty con đang được áp dụng tại VN, các TĐKTNN nhìn chung có những thẩm quyền như sau đối với các quyết định đầu tư:
– Đầu tư mới 100% vào những công ty 100% vốn của tập đoàn, hay những công ty đã có/sẽ có vốn chi phối của tập đoàn.
– Đầu tư phát triển SXKD vào những công ty nói trên.
– Đầu tư vào những công ty liên kết cũng như việc tăng hay giảm vốn sau này.
Trong nền kinh tế mở như hiện nay, có rất nhiều hình thức đầu tư để sinh lời:
– Đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh: Đây là mục tiêu chính từ các khoản vốn huy động được. Doanh nghiệp có thể sử dụng vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh theo hai hướng:
+ Theo chiều rộng: Tiến hành mở rộng quy mô sản xuất và mở rộng thị trường. Vốn sẽ được đầu tư vào máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị kỹ thuật, nhân viên mới.
+ Theo chiều sâu: Doanh nghiệp sử dụng vốn đổi mới công nghệ, thay thế các thiết bị cũ bằng các dây chuyền sản xuất mới, hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, từ đó nâng cao chất lượng đầu ra.
– Đầu tư vốn ra ngoài TĐKTNN:
+ Góp vốn, mua cổ phần để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; góp vốn hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới;
+ Mua cổ phần hoặc góp vốn tại các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh đang hoạt động;
+ Mua lại một công ty khác;
+ Mua công trái, trái phiếu để hưởng lãi;
+ Đầu tư ra nước ngoài: đây là hình thức đầu tư rất được nhà nước khuyến khích vì có tác động tích cực đến cán cân thanh toán của quốc gia. Doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài dưới các hình thức như: đầu tư chứng khoán, góp vốn cổ phần, hợp tác liên doanh…
+ Và một số hình thức đầu tư khác theo quy định của pháp luật
Cơ chế đầu tư vốn xét trong mối quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty con, cháu, công ty liên kết trong các TĐKTNN được phân loại thành các loại hình sau:
+ Đầu tư đơn cấp: đây là cơ chế đầu tư đơn thuần chỉ có một cấp, công ty mẹ đầu tư trực tiếp xuống công ty con, công ty con đầu tư trực tiếp xuống các công ty cháu…
+ Đầu tư đa cấp: Trong mô hình đa cấp, các công ty, đặc biệt là công ty mẹ, vừa đầu tư trực tiếp vào các công ty con, đồng thời cũng đầu tư trực tiếp vào các công ty cháu, chắt ở dưới, không thông qua công ty trung gian nào.
+ Đầu tư hỗn hợp: là mô hình kết hợp tất cả các hình thức đầu tư đơn cấp, đa cấp và các công ty con, cháu còn đầu tư ngược lại công ty mẹ.
Quản lý, sử dụng tài sản
Thực chất, vốn và tài sản là hai mặt của một vấn đề, vốn chính là biểu hiện bằng tiền của tài sản. Vì thế khi nghiên cứu cơ chế quản lý và sử dụng vốn thì không thể không nói tới cơ chế quản lý, sử dụng tài sản. Khi sử dụng tài sản, TĐKTNN đưa ra các quyết định đầu tư liên quan đến: tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản cần có và mối quan hệ cân đối giữa các bộ phận tài sản trong doanh nghiệp. Quản lý tài sản trong các TĐKTNN được xét trên hai góc độ: quản lý nhà nước về sử dụng tài sản và quan hệ sử dụng tài sản trong nội bộ tập đoàn.
Nhà nước quản lý tài sản của mình trong các TĐKTNN theo cơ chế tăng quyền tự chủ cho các TĐKTNN trong các quyết định như: được quyền thay đổi cấu trúc tài sản sao cho phù hợp với yêu cầu SXKD của tập đoàn, được cầm cố, thế chấp… tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng hợp pháp của TĐKTNN.
Cơ chế quản lý và sử dụng tài sản đối với các TĐKTNN bao gồm các nội dung sau: cơ chế cấp phát vốn, tài sản cho các doanh nghiệp là thành viên, cơ chế phân cấp đầu tư, cơ chế thực hiện góp liên doanh hay đầu tư vào các doanh nghiệp khác… Trong đó cơ chế quản lý tài sản tập trung vào cơ chế phân cấp sử dụng tài sản. Hội đồng quản trị (HĐQT) có quyền ban hành cơ chế này, quyết định những chính sách và biện pháp về sử dụng tài sản trong các doanh nghiệp là thành viên. Quản lý tài sản bao gồm quản lý tài sản cố định (TSCĐ) và quản lý tài sản lưu động (TSLĐ).
Quản lý tài sản cố định: Theo thông tư 203/2009/TT-BTC của Bộ Tài Chính, mỗi TSCĐ (bao gồm TSCĐ vô hình và TSCĐ hữu hình) phải được quản lý theo nguyên giá, số hao mòn luỹ kế và giá trị còn lại trên sổ sách kế toán:
Giá trị còn lại trên sổ kế toán của TSCĐ = Nguyên giá của TSCĐ – Số hao mòn lũy kế của TSCĐ
Để quản lý được số hao mòn lũy kế của TSCĐ, tất cả TSCĐ hiện có của doanh nghiệp đều phải trích khấu hao gồm cả tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý, trừ những tài sản cố định thuộc công trình phúc lợi công cộng, nhà ở. Căn cứ khả năng đáp ứng các điều kiện áp dụng quy định cho từng phương pháp trích khấu hao tài sản cố định mà doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp trích khấu hao phù hợp với từng loại tài sản cố định của doanh nghiệp như sau:
- phương pháp khấu hao đường thẳng
- phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh
- phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm
Quản lý tài sản lưu động: Tài sản lưu động là những tài sản thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, có thời gian sử dụng luân chuyển và thu hồi trong vòng 1 năm. TSLĐ thường được tài trợ bằng vốn lưu động (vốn ngắn hạn). Vì thế quản lý TSLĐ chính là quản lý vốn lưu động theo các hoạt động sau:
- Xác định nhu cầu về vốn lưu động
- Xây dựng và quản lý các định mức hao phí về nguyên, nhiên, vật liệu, tiền lương và các chi phí bằng tiền khác
- Xây dựng và quản lý các định mức về tồn quỹ tiền mặt, các khoản phải thu, khoản phải trả, số lượng hàng tồn kho
Trong quá trình sử dụng doanh nghiệp phải tổ chức kiểm kê, xác định số lượng tài sản (tài sản cố định và đầu tư dài hạn, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn), đối chiếu các khoản công nợ phải trả, phải thu khi khóa sổ kế toán để lập báo cáo tài chính năm để xử lý tổn thất tài sản và đánh giá lại tài sản (trong một số trường hợp).
Theo nghị định 09/2009/NĐ-CP, vấn đề quản lý vốn và tài sản của nhà nước tại các doanh nghiệp, TĐKTNN nhà nước phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn và tài sản của nhà nước, sử dụng vào những mục đích sinh lời, có lợi cho xã hội và không vi phạm pháp luật.
2.3. Cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận
Mục tiêu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nói đến cùng là lợi nhuận. Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều xoay quanh mục tiêu lợi nhuận, hướng đến lợi nhuận và tất cả vì lợi nhuận. Theo quy định hiện hành, lợi nhuận bao gồm lợi nhuận từ hoạt động SXKD và lợi nhuận khác. Lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu và các khoản chi phí:
Lợi nhuận = Doanh thu thuần – Các khoản chi phí
Đi đôi với việc quản lý lợi nhuận, các TĐKTNN phải quản lý doanh thu và chi phí bằng cơ chế quản lý doanh thu và chi phí:
Doanh thu bao gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh và các thu nhập khác.
Cơ chế quản lý doanh thu phụ thuộc nhiều vào mô hình hoạt động kinh doanh đa ngành hay đơn ngành và tính chất sở hữu của từng loại hình TĐKTNN. Cơ chế quản lý doanh thu được thực hiện theo 3 cách:
Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức tập trung: cơ chế hoạt động dựa trên cơ sở quản lý chặt chẽ doanh thu của các công ty thành viên, qua đó xác định doanh thu của toàn bộ tập đoàn. Hình thức này chỉ phù hợp với những tập đoàn kinh doanh đơn ngành, kết quả kinh doanh ổn định không phụ thuộc quá nhiều vào các yếu tố của môi trường bên trong và bên ngoài và quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là liên kết chặt.
Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức phân tán: hình thức này không xây dựng định mức doanh thu cho các công ty thành viên mà chỉ thống kê doanh thu của toàn tập đoàn nhằm đưa ra chiến lược phát triển cho toàn tập đoàn. Hình thức này phù hợp với các TĐKTNN kinh doanh đa ngành và quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con là liên kết chặt.
Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức hỗn hợp: là hình thức tổng hợp của hai hình thức trên. Trong TĐKTNN có các đơn vị hạch toán độc lập (HTĐL) và hạch toán phụ thuộc (HTPT). Hình thức này hiện nay rất phổ biến trong các TĐKTNN.Chi phí là các khoản chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động SXKD trong năm tài chính, bao gồm chi phí SXKD và các chi phí khác. Cơ chế quản lý chi phí cũng tuỳ vào mô hình hoạt động kinh doanh đa ngành hay đơn ngành mà các TĐKTNN có các hình thức khác nhau:
Cơ chế quản lý chi phí theo hình thức khoán chi phí: hình thức này phù hợp với các TĐKTNN kinh doanh đa ngành, khó có thể lượng hoá hoặc quy chuẩn về một định mức nhất định. Gọi là khoán chi phí nhưng thực chất là phương thức khoán theo các chỉ tiêu như: khoán theo doanh thu, khoán theo tốc độ phát triển sản phẩm…
Cơ chế quản lý chi phí theo hình thức áp dụng định mức: Đối với các TĐKTNN kinh doanh đơn ngành thì áp dụng một định mức nhất định cho các công ty thành viên.
Cơ chế quản lý chi phí theo hình thức hỗn hợp: là hình thức tổng hợp của hai hình thức trên.
Dựa theo cơ chế quản lý doanh thu và chi phí mà TĐKTNN xây dựng cơ chế quản lý lợi nhuận cho phù hợp. Cơ chế quản lý lợi nhuận cũng có ba hình thức quản lý:
- Cơ chế quản lý lợi nhuận theo hình thức tập trung
- Cơ chế quản lý lợi nhuận theo hình thức phân tán
- Cơ chế quản lý lợi nhuận theo hình thức hỗn hợp
Trong cơ chế quản lý lợi nhuận, cơ chế phân phối lợi nhuận trong các TĐKTNN được các chủ sở hữu và người lao động quan tâm nhất. Lợi nhuận sau thuế được phân phối theo điều lệ của tập đoàn, quy định của nhà nước và các phương án kinh doanh ở kỳ tiếp theo của tập đoàn.
Theo Nghị định 09/2009/NĐ-CP, lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh và thu nhập khác, sẽ tiến hành phân phối lần lượt từ bước 1 đến bước 5 như sơ đồ 1.6, không được đảo lộn thứ tự các bước. Phần lợi nhuận còn lại ở bước thứ 5 được phân phối như sau:
- Chia lãi cho các thành viên góp vốn liên kết theo quy định của hợp đồng (nếu có);
- Bù đắp khoản lỗ của các năm trước đã hết thời hạn được trừ vào lợi nhuận trước thuế;
- Trích 10% vào quỹ dự phòng tài chính; khi số dư quỹ bằng 25% vốn điều lệ thì không trích nữa;
- Trích lập các quỹ đặc biệt từ lợi nhuận sau thuế theo tỷ lệ đã được nhà nước quy định đối với TĐKTNN đặc thù mà pháp luật quy định phải trích lập.
- Số còn lại sau khi lập các quỹ quy định được phân phối theo tỷ lệ giữa vốn nhà nước đầu tư tại TĐKTNN và vốn công ty tự huy động bình quân trong năm.
Đối với các TĐKTNN, các công ty thành viên cùng góp một quỹ chung (trích nộp cho công ty mẹ) để phục vụ mục đích chung của cả tập đoàn.
2.4. Cơ chế kiểm soát tài chính
Song song với các cơ chế trên là cơ chế kiểm soát tài chính. Việc kiểm tra, giám sát tài chính của các TĐKTNN phải luôn luôn sát sao và kịp thời, bao gồm:
Nhà nước thực hiện kiểm tra, giám sát có định kỳ đối với các TĐKTNN. Nhà nước kiểm soát tài chính thông qua cơ chế quản lý tài chính và ban hành quy định về Luật kế toán, điều lệ tổ chức kế toán, Luật kiểm toán…
Công ty mẹ thực hiện kiểm tra, giám sát các công ty con, công ty liên kết.
Mức độ kiểm soát phụ thuộc vào tỷ lệ phần trăm sở hữu cổ phần chi phối trong các công ty này.
TĐKTNN phải tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê theo đúng quy định của pháp luật đồng thời phải chịu sự kiểm tra, giám sát tài chính của các đơn vị có thẩm quyền như: thanh tra, các cơ quan độc lập, kiểm soát nội bộ doanh nghiệp. Sau khi kết thúc một chu kỳ kinh doanh, để minh bạch và chính xác trong những báo cáo tài chính và khoản thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng cho nhà nước, tập đoàn phải chịu sự kiểm tra, soát xét của các kiểm toán viên. Công tác kiểm toán được thực hiện theo các nội dung sau:
Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán quyết toán vốn đầu tư nhằm kiểm tra và xác nhận tính đúng đắn, trung thực, hợp pháp, độ tin cậy của báo cáo trước khi giám đốc, tổng giám đốc ký duyệt và công bố. Thông qua công tác kiểm tra, kiểm toán viên nội bộ đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động SXKD của TĐKTNN nhằm đảm bảo tính hiệu quả và hợp lý.
Kiểm toán tuân thủ: kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, chế độ quản lý của nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, quy chế, quyết định của hội đồng quản trị, Ban giám đốc… Nội dung công việc kiểm toán tuân thủ được kết hợp với cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Kiểm toán chuyên đề theo các nội dung cụ thể tại các đơn vị nhằm đảm bảo thực hiện quản lý theo các mục tiêu đã định có ảnh hưởng quan trọng tới việc quản lý, điều hành của TĐKTNN như kiểm toán chuyên đề quản lý tài sản, quản lý tem thư, kiểm toán ngân quỹ, kiểm toán quản lý công nợ….
Thực chất, ba nội dung trên đều cùng được kết hợp thực hiện để đảm bảo đánh giá toàn diện tình hình quản lý ở một lĩnh vực cụ thể.
Đối với các TĐKTNN, vai trò và công việc của các kiểm soát viên nội bộ càng phải được nêu cao, cụ thể và chặt chẽ hơn tại các công ty con và được sự kiểm soát trực tiếp từ công ty mẹ.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến cơ chế quản lý tài chính trong tập đoàn kinh tế Nhà nước
CCQLTC trong các TCT 91- tiền thân của các TĐKTNN bị ảnh hưởng từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, trước khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Quy mô vốn của các TCT phụ thuộc vào cơ chế cấp phát vốn của ngân sách nhà nước (NSNN) nên các TCT không phát huy được khả năng tự chủ, sáng tạo trong việc tạo lập, huy động vốn. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, có sự điều tiết của chính phủ hiện nay, CCQLTC trong các TĐKT hoàn toàn phụ thuộc vào các động lực kinh tế và cung cầu về vốn trên thị trường. Như vậy, cơ chế huy động vốn trong các TĐKTNN nói riêng và tất cả doanh nghiệp nói chung phụ thuộc vào một số yếu tố cụ thể của mỗi nền kinh tế: hệ thống tài chính và thị trường tài chính; hệ thống luật phát và vai trò can thiệp vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế và môi trường kinh doanh đa dạng của quốc gia.
Trong môi trường có sự điều tiết của Chính phủ; có sự mở rộng hơn các kênh thu hút vốn cho các doanh nghiệp và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn với các công cụ tài chính khác nhau. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, đặc biệt là các TĐKTNN phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của Chính phủ và bị kiểm soát tương đối chặt chẽ của các cơ quan chức năng của Chính phủ như Bộ Tài Chính, Ngân hàng thương mại, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, cơ quan kiểm toán, cơ quan chủ quản… Hoạt động huy động vốn của các TĐKTNN bị kiểm soát một số mặt như: phương thức huy động vốn, công cụ tài chính và cơ chế báo cáo. Vì vậy, cơ chế kiểm soát của các cơ quan, ban ngành có tác động đến hướng đi của CCQLTC trong các TĐKTNN.
Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức của các TĐKTNN và mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con cũng là yếu tố có ảnh hưởng lớn thứ hai đến CCQLTC. Mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con càng chặt chẽ thì sự ảnh hưởng của những quyết định của công ty mẹ đến CCQLTC của công ty con càng lớn và ngược lại.
Ngoài ra, đặc điểm ngành nghề kinh doanh của TĐKTNN cũng có tác động không nhỏ đến CCQLTC đặc biệt là cơ chế huy động vốn. TĐKTNN hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng hay công nghiệp nặng thường có nhu cầu về vốn rất lớn. Những TĐKTNN hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ hoặc một số lĩnh vực khác có nhu cầu về vốn ít hơn. Vì thế mà CCQLTC ở các TĐKTNN là khác nhau.
4. Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính trong các tập đoàn kinh tế Nhà nước
Khi khủng hoảng tài chính xảy ra, tưởng chừng những TĐKTNN sẽ đứng vững và nổi lên như là một hiện tượng chống lại “cơn bão” khủng hoảng. Nhưng sự phá sản của rất nhiều các TĐKT trên thế giới là một lời cảnh báo cho các TĐKT khác đang ung dung tin rằng CCQLTC của mình đủ tốt. Ví dụ điển hình là tập đoàn General Motor, Mỹ (GM) đã nộp đơn xin phá sản đầu năm 2009, khủng hoảng nền kinh tế Mỹ không phải là lí do duy nhất nhưng nó là yếu tố cơ bản nhất để đẩy nhanh quá trình này. Không quản lý tốt chi phí, khiến chi phí của mỗi sản phẩm dôi lên quá cao mà độ bền của sản phẩm lại không làm vừa lòng người tiêu dùng đã đẩy GM vào tình trạng phá sản. Theo giới chuyên gia, sự sụp đổ của GM có thể làm tê liệt nền kinh tế Mỹ, khiến số người thất nghiệp tăng cao. Thực tế đã chứng minh rằng, bất cứ mặt nào yếu kém của doanh nghiệp đều dẫn đến sự yếu kém về CCQLTC. CCQLTC là yếu tố căn bản và quan trọng nhất để một TĐKTNN có đủ nội lực để tiến hành sản xuất, kinh doanh đạt năng suất cao nhất. Vậy nền kinh tế của Việt Nam sẽ ra sao nếu tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam hay tập đoàn điện lực Việt Nam- những tập đoàn có số vốn rất lớn của nhà nước sẽ phá sản vì yếu kém trong cơ chế quản lý tài chính? Điều đó sẽ gây ra nhiều tác động xấu đến kinh tế- chính trị- xã hội của Việt Nam:
Số lượng người thất nghiệp gia tăng một cách chóng mặt làm tăng tỉ lệ thất nghiệp của nước ta. Tỷ lệ thất nghiệp cao gây khó khăn cho cuộc sống của rất nhiều người lao động dẫn đến những ảnh hưởng xấu đến tốc độ tăng trưởng quốc gia và nền kinh tế đất nước.
Thâm hụt vốn của ngân sách nhà nước khi nguồn vốn đầu tư vào các TĐKTNN là quá lớn. Mức thâm hụt vượt quá giới hạn cho phép, chính phủ không thể tự chống đỡ đành phải dựa vào sự hỗ trợ từ nước ngoài bằng cách tăng khoản nợ quốc gia. Nợ nước ngoài dội lên quá cao khiến Nhà nước mất tự chủ, bị nước ngoài chi phối bề ngoài là về mặt tài chính nhưng thực chất ẩn chứa nguy cơ chính trị bên trong.
Nhà nước mất công cụ điều tiết kinh tế đẩy nền kinh tế vào nguy cơ rơi vào tình trạng tê liệt dẫn đến khủng hoảng.
Khi các TĐKTNN rơi vào phá sản, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ nhảy vào các ngành nghề thế mạnh và nhạy cảm của nước ta mà các tập đoàn đang nắm giữ chủ yếu. Điều này tạo cơ hội cho những thành phần nước ngoài muốn chống phá chủ nghĩa XHCN ở nước ta khống chế và chi phối nền kinh tế, qua đó chi phối chính trị và làm lệch lạc định hướng XHCN của nước ta.
Chính vì vậy, đổi mới căn bản chính sách, hoàn thiện CCQLTC tại các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các TĐKTNN là vấn đề cấp thiết để không đi theo vết xe đổ của các TĐKTNN trên thế giới trong thời kỳ hậu khủng hoảng.
Tóm lại, việc xây dựng một CCQLTC hoàn thiện tại các TĐKTNN là vô cùng cần thiết. Nó không chỉ có ý nghĩa tạo điều kiện để các TĐKTNN phát huy năng lực một cách tốt nhất mà còn tạo lợi nhuận và uy tín đối cho nhà nước và cũng đồng thời có những ảnh hưởng tích cực đến kinh tế- chính trị- xã hội.
Để lại một bình luận