Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn nội dung cơ sở lý luận về chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương.
1. Khái niệm chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
Để đưa ra được khái niệm Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương, chúng ta phải hiểu phát triển kinh tế là gì, phát triển xã hội bao gồm những gì và tổng thể của phát triển kinh tế – xã hội, từ đó chúng ta mới rõ được chiến lược phát triển kinh tế – xã hội là gì và tại sao lại phải có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.
Phát triển kinh tế là một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Phát triển kinh tế bao hàm các sự tăng trưởng kinh tế tức là tăng về quy mô sản lượng, sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế và sự tiến bộ về xã hội [22].
Phát triển xã hội là quá trình phát triển con người xã hội, con người cộng đồng, con người trong sự liên hiệp tự do và bình đẳng về quyền và cơ hội; là làm cho con người được sống trong những điều kiện ngày càng đầy đủ về vật chất và tinh thần trong một môi trường tự nhiên và xã hội trong sạch, lành mạnh, an toàn; làm cho con người có đủ sức khỏe, tri thức, kỹ năng và thái độ cần thiết để sống, lao động và hoàn thiện mình, xứng đáng là Con người, trong các quá trình lịch sử của một quốc gia dân tộc và của toàn nhân loại [27].
Như vậy, phát triển kinh tế – xã hội được hiểu là sự đi lên của nền kinh tế và xã hội; lấy tăng trưởng kinh tế làm cơ sở để cải thiện chất lượng cuộc sống.
Vậy để có được một nền kinh tế – xã hội phát triển, chúng ta phải có chiến lược cụ thể, đúng đắn. Như đã nêu trên, chiến lược chính là con đường, là kim chỉ nam dẫn đến cánh cửa của thành công với mục tiêu dài hạn mà mọi tổ chức quyết tâm đạt được. Chiến lược giúp cho tổ chức xác định rõ được mục tiêu, hướng đi của mình trong tương lai; nắm bắt, tận dụng được cơ hội của mình đồng thời có biện pháp chủ động đối phó với những nguy cơ, những mối đe dọa ở môi trường bên ngoài tổ chức; giúp nâng cao hiệu quả sử dụng mọi nguồn lực bên trong của tổ chức, tránh những điểm yếu, đảm bảo tổ chức hoạt động liên tục; cuối cùng, chiến lược giúp cho tổ chức ra được những quyết định sáng suốt nhất, phù hợp nhất dựa trên những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ từ môi trường bên trong và bên ngoài tổ chức.
“Có chiến lược mà không có chiến thuật là con đường chông gai đi đến thắng lợi. Có chiến thuật mà không có chiến lượ thì chỉ là những níu kéo trước khi thất trận mà thôi” [10].
“Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội hay còn gọi là chiến lược phát triển là một bộ phận đặc biệt quan trọng của chính sách kinh tế xã hội nhằm xác định mục tiêu cơ bản, lâu dài phù hợp với nhiệm vụ trước mắt của sự phát triển và các phương tiện biện pháp để thực hiện mục tiêu đó. Chiến lược phát triển quyết định phương hướng lâu dài, dự kiến nhiều năm của nền kinh tế và dự định giải quyết nhiệm vụ kinh tế xã hội trong phạm vi quy mô lớn” [12].
Từ định nghĩa chiến lược, ma trận swot, phát triển kinh tế – xã hội, chiến lược phát triển kinh tế xã hội ta rút ra được chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương là:
Xác định sứ mệnh, tầm nhìn, mục tiêu của địa phương, triển khai thực hiện chuỗi hành động có kế hoạch theo thời gian lâu dài, tác động đến kinh tế – văn hóa xã hội, quốc phòng – an ninh trên cơ sở tận dụng nguồn lực hữu hạn, phát huy điểm mạnh, nắm lấy cơ hội của địa phương, khắc phục điểm yếu, hạn chế, đối phó với nguy cơ, thách thức từ bên ngoài một cách hợp lý nhằm phát triển kinh tế – xã hội địa phương một cách bền vững, có kiểm soát và mục đích cuối cùng nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng, đạt được mục tiêu đã đề ra.
2. Sự cần thiết phải xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương
Chiến lược có vai trò vô cùng quan trọng trong quản trị mọi tổ chức. Bởi chiến lược chính là con đường, là kim chỉ nam dẫn đến cánh cửa của thành công với mục tiêu dài hạn mà mọi tổ chức quyết tâm đạt được.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương cũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của một địa phương trên mọi phương diện và mang tính tất yếu, tự nhiên, khách quan của sự phát triển.
Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương giúp cho địa phương xác định được tầm nhìn, mục tiêu trong tương lai và có được những bước đi, giải pháp triển khai thực hiện đúng hướng trên con đường phát triển của mình. Cụ thể:
Xác định tầm nhìn, mục tiêu dựa trên việc phân tích môi trường bên ngoài, môi trường bên trong của địa phương.
Đưa ra những phương án chiến lược và lựa chọn phương án chiến lược phù hợp nhất đối với địa phương.
Có những giải pháp thống nhất liền mạch theo từng giai đoạn thời gian để thực hiện.
Như vậy, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương là rất cần thiết trong sự phát triển chung của một thành phố, một quốc gia và thế giới.
3. Quy trình xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
3.1. Phân tích môi trường bên ngoài địa phương
Phân tích môi trường bên ngoài địa phương bao gồm phân tích các yếu tố về tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế nhằm dự báo cơ hội, nguy cơ giúp cho địa phương nắm bắt được cơ hội, tránh được được những nguy cơ trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể:
Về tự nhiên:
Vị trí địa lý đối với phát triển kinh tế – xã hội:
Phân tích vị trí địa lý của một địa phương cho ta biết được địa phương nằm ở vị trí thuận lợi hay không thuận lợi. Tại vị trí đó, địa phương được trợ giúp bởi yếu tố gì, cái gì là cơ hội mà địa phương có thể tận dụng vị trí để phát triển kinh tế – xã hội. Các cụ ta có câu “nhất cự ly, nhì tốc độ” là nói đến vị trí ở gần sẽ tốt hơn.
Vị trí địa lý của một địa phương sẽ không được thuận lợi khi địa phương đó có vị trí nằm cách xa trung tâm đô thị lớn; cách xa nguồn nước; cách xa nguồn điện; cách xa hệ thống giao thông đường hàng không, đường bộ – sắt, đường sông, đường biển; cách xa khu vực phủ sóng viễn thông…Khi địa phương thiếu đi một trong những điều kiện, nguồn lực nêu trên thì lẽ tất yếu sẽ không thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao lưu văn hóa xã hội và đặc biệt là sự quan tâm của trung ương đối với địa phương khi quốc gia còn nghèo khó.
Phân tích vị trí địa lý đối với phát triển kinh tế – xã hội, ta phân tích các đặc điểm sau:
Địa phương thuộc tỉnh thành phố nào, vùng nào của đất nước?
Địa phương có nhiều sông ngòi, ao hồ hay tiếp giáp với biển không?
Địa phương nằm trên độ cao bao nhiêu so với mực nước biển?
Địa phương nằm gần hay xa các trung tâm đô thị?
Địa phương nằm gần, cách xa hay nằm trên hệ thống giao thông huyết mạch của tỉnh thành phố, của đất nước?
Như vậy vị trí địa lý của một địa phương là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là khi phân tích chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương; sự ảnh hưởng của vị trí địa lý đối với kinh tế, đối với xã hội và quốc phòng – an ninh.
Vị trí địa lý thuận lợi của nước ta hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các ngành kinh tế, các vùng lãnh thổ, tạo điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Khí hậu đối với phát triển kinh tế – xã hội:
Khí hậu thuận lợi sẽ giúp cho địa phương rất nhiều mặt.
Về kinh tế: Giúp địa phương triển khai các dự án công trình thuận lợi, dịch vụ du lịch phát triển, nuôi trồng được mùa.
Về giao thông bớt khó khăn, nhất là giao thông đường bộ, hàng không và trên biển.
Phân tích đặc điểm khí hậu ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, ta phân tích các yếu tố sau:
Nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa trong năm của địa phương như thế nào? So sánh với khí hậu trung bình quốc gia và các địa phương khác tương đồng về vị trí địa lý?
Diễn biến thời tiết qua các năm ra sao? Thời tiết cực đoan: Gió mùa, bão gió, nóng, lạnh?
Như vậy phân tích khí hậu của địa phương sẽ giúp ta nhận biết được địa phương nằm trong vùng khí hậu thuận lợi hay khó khăn, từ đó ta nhận định được những cơ hội thuận lợi cho địa phương để phát triển kinh tế – xã hội, tránh được những nguy cơ mà khí hậu mang lại.
Về chính trị:
Chính trị là một trong bốn lĩnh vực cơ bản, bao gồm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo quan điểm của Mac – Lênin, chính trị về thực chất bắt nguồn từ quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia, dân tộc. Trong đó, trước hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế. Như vậy, chính trị chịu sự tác động của kinh tế. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế là mối quan hệ cơ bản nhất, quyết định nhất đối với sự vận động và phát triển của mọi xã hội. Thực chất các quan hệ chính trị (quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ quốc gia) là giải quyết các quan hệ về quyền lực để đi đến các mục tiêu lợi ích kinh tế.
Vai trò của chính trị đối với kinh tế thể hiện trong luận điểm của Lenin như sau:
“Thứ nhất, hệ thống các quan hệ kinh tế cũng như những quan hệ kinh tế cơ bản do chính trị thiết lập ra là cơ sở cho sự tồn tại, ổn định, bền vững của chính trị. Do đó, chính trị trước hết phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị của giai cấp thống trị.
Thứ hai, thông qua tổ chức, chức năng và những năng lực vật chất, tinh thần, chính trị nói chung và đặc biệt là nhà nước nói riêng có thể nhận thức vượt trước so với kinh tế, có thể tiên đoán được tương lai vận động của đời sống kinh tế.
Thứ ba, chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những hình thức, những điều kiện tác động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định.
Có thể khẳng định trong mọi thời đại, xét đến cùng, chính trị đều có vai trò bảo vệ, lãnh đạo kinh tế, là một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Vai trò của chính trị với kinh tế là vô cùng to lớn. Mối quan hệ chính trị – kinh tế là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại,nhân quả” [54].
Một quyết sách về chính trị có ảnh hưởng vô cùng to lớn đến sự phát triển kinh tế của một đất nước, một thành phố và một địa phương nhất định và ngược lại. Vì, sự vận động của kinh tế là khách quan và luôn luôn biến động còn chính trị lại chứa đựng trong đó rất nhiều yếu tố chủ quan của con người. Nếu ra một quyết sách sai lầm có thể làm sụp đổ cả một hệ thống kinh tế và ngược lại, nếu để kinh tế phát triển theo hướng tự phát, kiểm soát lỏng lẻo hoặc điều tiết sai lầm thì có thể làm sụp đổ cả một hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương.
Như vậy, chính trị là điều mấu chốt, có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia, một tỉnh thành phố hay một địa phương nhỏ. Để đất nước hay một tỉnh, thành phố, một địa phương đi đến sự phát triển phồn thịnh hay thụt lùi so với đát nước bạn hay các tỉnh thành phố và địa phương khác trong cả nước thì việc có được đường lối đúng đắn, cơ chế chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn cuộc sống là cả một quá trình phát triển lâu dài, tư duy sống còn của cả một quốc gia, tỉnh thành phố và địa phương.
Việc phân tích chính trị nhằm giúp nhận định tình hình về cơ chế chính sách, đường lối phát triển của trung ương, tỉnh thành phố đối với địa phương, nhận định về tình hình chính trị của đất nước và thế giới, nhất là vùng biên giới tiếp giáp giữa lãnh thổ hai nước, giúp địa phương nhận biết được tương lai của mình mà có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phù hợp.
Về kinh tế:
Kinh tế chính là một phần của phát triển kinh tế – xã hội. Phân tích tình hình kinh tế trong nước, vùng lãnh thổ và tỉnh thành phố để thấy được sự ảnh hưởng của kinh tế đối với sự phát triển của một địa phương. Như ta thấy, đất nước phát triển đồng nghĩa với việc các tỉnh thành phố cũng phát triển, tỉnh thành phố này phát triển sẽ trợ giúp tỉnh thành phố khác phát triển, địa phương này phát triển thì đ ịa phương khác cũng phát triển theo. Về cơ bản, tỉnh thành phố nào thu hút được nhiều vồn đầu tư, nhiều dự án thì tỉnh thành phố khác cũng sẽ làm theo, thay đổi cơ chế thu hút đầu tư, ở đây ta gọi là cùng nhau phát triển, hiện tượng domino.
Những năm gần đây, ở phía Bắc Việt Nam, tỉnh Bắc Ninh, Quảng Ninh nổi lên như một tượng đài về phát triển. Nếu như Bắc Ninh thu hút vốn đầu tư lớn vào các dự án khu công nghiệp thì Quảng Ninh lại thu hút đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ du lịch. Cả hai tỉnh này đều là những tỉnh phát triển nhanh nhất khu vực phía Bắc, ngoại trừ thành phố Hà Nội. Chính vì sự phát triển nhanh và mạnh đó mà Hải Phòng, thành phố được thành lập từ thời Pháp thuộc, vài năm gần đây (giai đoạn từ năm 2015 đến nay) cũng đã thức tỉnh sau những năm ngủ dài để vươn mình phát triển đi lên, xứng tầm với vị trí là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương, cửa ngõ ra biển lớn, trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ của vùng duyên hải Bắc Bộ…..
Đối với địa phương khối quận huyện thuộc tỉnh, thành phố cũng vậy. Trong một tỉnh, thành phố, quận huyện này thu hút nhiều vốn đầu tư, nhiều dự án đầu tư thì quận huyện khác cũng có mục tiêu như vậy. Nếu tỉnh, thành phố phát triển cũng đồng nghĩa với việc các quận huyện phát triển. Tuy nhiên, trong một tỉnh, thành phố có quận huyện phát triển nhanh, có quận huyện phát triển chậm hoặc cũng có quận huyện dậm chân tại chỗ với nhiều lý do khách quan và chủ quan. Nhưng nhìn chung, các quận huyện phát triển đều là những quận huyện có được chiến lược phát triển kinh tế – xã hội thích hợp và có được sự kích thích, đòn bẩy về kinh tế từ tỉnh, thành phố nhà. Đó chính là sự quan tâm của các nhà lãnh đạo tỉnh thành phố đã tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương có được nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn khác để đầu tư, tái đầu tư các công trình, dự án, cơ sở hạ tầng nhằm kích thích phát triển.
Như vậy, ngoài sự tác động của các yếu về tự nhiên (vị trí địa lý, khí hậu), về chính trị thì việc phân tích tình hình kinh tế trong nước, kinh tế vùng, kinh tế tỉnh thành phố mà địa phương đó tại vị cũng vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là cơ hội hình thành nên chiến lược mà địa phương phải tập trung nắm bắt để tận dụng thời cơ phát triển kinh tế – xã hội của mình, đề phòng, tránh những nguy cơ về kinh tế có thể xảy ra trong tương lai.
Về văn hóa xã hội:
Văn hóa xã hội là một phần của phát triển kinh tế – xã hội. Văn hóa là sản phẩm của con người, bao gồm văn hóa vật thể và phi vật thể.
Phân tích về văn hóa xã hội giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về xã hội mà chúng ta đang sống. Văn hóa chính là cái nét riêng của mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, tỉnh thành phố và mỗi địa phương. Văn hóa giúp chúng ta phân biệt được quốc gia này khác biệt với quốc gia khác, dân tộc này khác với dân tộc khác, tỉnh thành phố này khác với tỉnh thành phố khác, vùng miền này khác với vùng miền khác, địa phương này khác với địa phương khác. Vì mang những nét riêng, đặc thù mà giữa các quốc gia, dân tộc, tỉnh thành phố, vùng miền và địa phương có sự giao thoa lẫn nhau, học hỏi lẫn nhau trên cở sở giữ gìn bản sắc văn hóa của mình.
Tại sao du khách quốc tế lại đến Việt Nam, tại sao người dân vùng miền này lại đến vùng miền khác, tại sao người dân ở tỉnh thành phố này lại đến tỉnh thành phố khác. Không phải ngẫu nhiên mà nơi có nét văn hóa đặc sắc lại thu hút rất đông du khách viếng thăm. Bởi, đó chính là sự hấp dẫn về văn hóa, về nét đặc sắc riêng mà con người vốn có bản chất khám phá luôn luôn mong muốn tìm tòi, mở rộng tầm hiểu biết của mình về thế giới, xã hội mà mình đang sống.
Như vậy, phân tích văn hóa xã hội sẽ giúp chúng ta hiểu được sự ảnh hưởng của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, giúp địa phương biết được trào lưu hiện thực của xã hội, nhu cầu mong muốn của du khách để từ đónắm bắt thời cơ, tận dụng lợi thế, tiềm năng của địa phương phát triển dịch vụ du lịch thu hút du khách thập phương đến với mình.
Về khoa học công nghệ
“Phát triển kinh tế – xã hội phải dựa trên phát triển KH&CN, Không phát triển KH&CN, Việt Nam sẽ tụt hậu”[15].
Các nhà khoa học cũng như các vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định khoa học công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nói chung và của mỗi địa phương nói riêng.
“Theo cách hiểu chung nhất, hoạt động khoa học và công nghệ là tập hợp toàn bộ các hoạt động có hệ thống và sáng tạo nhằm phát triển kho tàng kiến thức liên quan đến con người, tự nhiên và xã hội, nhằm sử dụng những kiến thức đó để toại ra những ứng dụng mới”[29].
Những ứng dụng mới này là những ứng dụng hữu ích nhằm phục vụ đời sống của con người, hay nói cách khác là áp dụng khoa học công nghệ vào đời sống hàng ngày sẽ cải thiện cuộc sống, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Việt Nam đang trên đà phát triển, một trong những yếu tố giúp cho đất nước phát triển đi lên chính là khoa học công nghệ.
Như vậy, việc phân tích sự ảnh hưởng của khoa học công nghệ đến phát triển kinh tế – xã hội giúp cho địa phương nắm bắt được xu thế phát triển của tỉnh thành phố, của vùng miền, đất nước và thế giới, nắm bắt được cơ hội để có thể áp dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ vào thực tiễn địa phương, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, đáp ứng được nhu cầu của xã hội và đặc biệt là cơ hội quảng bá hình ảnh của địa phương đến với mọi người trên khắc đất nước và thế giới.
Về hội nhập quốc tế:
Hội nhập sâu rộng quốc tế là tiền đề giúp cho đất nước phát triển vượt bậc. Có hội nhập quốc tế, nước ta mới có thể thoát khỏi tình trạng trì trệ, kém phát triển. Hội nhập quốc tế giúp Việt Nam đi tắt đón đầu, sử dụng những cái mới nhất của thế giới mà những nước phát triển hàng trăm năm trước phải trải qua vài ba lần cách mạng công nghiệp mới có được như ngày nay. Hội nhập quốc tế, Việt Nam có cơ hội tham gia các tổ chức thương mại, các hiệp định thương mại, mậu dịch tự do, có cơ hội giao thương về kinh tế, văn hóa xã hội… với hầu hết các quốc gia trên thế giới; giúp tất cả các thành phần kinh tế đều phát triển, giúp đất nước có được cán cân thương mại phát triển.
Phân tích vấn đề hội nhập quốc tế để thấy được cơ hội và nguy cơ tác động như thế nào đến phát triển kinh tế xã hội địa phương, ta trả lời các câu hỏi sau:
Cơ hội về kinh tế khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Cơ hội về chính trị khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Cơ hội về giao lưu văn hóa khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Cơ hội về khoa học công nghệ khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Cơ hội của địa phương là gì khi đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới?
Nguy cơ về kinh tế khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Nguy cơ về chính trị khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Nguy cơ về giao lưu văn hóa khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Nguy cơ về khoa học công nghệ khi nước ta hội nhập sâu rộng với thế giới?
Nguy cơ của địa phương là gì khi đất nước hội nhập sâu rộng với thế giới?
Như vậy, trả lời được các câu hỏi trên ta sẽ tạo lập được những căn cứ chiến lược phát triển kinh tế xã hội một cách đầy đủ nhất, chính là cơ hội giúp cho địa phương có được những điều kiện cần thiết để phát triển đầy đủ nhất về kinh tế, văn hóa xã hội. mà nội lực không bao giờ có được.
3.2. Phân tích môi trường bên trong địa phương
Về tự nhiên:
Đầu tiên chúng ta phân tích về các yếu tố tự nhiên của địa phương như đất đai, nước và hệ sinh thái. Đây là những yếu tố cơ bản của một địa phương khi phân tích bất cứ điều gì liên quan đến địa phương. Và đây cũng là yếu tố quan trọng nhất khi chúng ta phân tích để đưa ra chiến lược giúp địa phương phát triển đi lên. Đất đai cằn cỗi, đầy sỏi đá, nguồn nước phục vụ sinh hoạt cơ bản cho người dân luôn thiếu, hệ sinh thái nghèo nàn do khí hậu khắc nghiệt … là những yếu tố ảnh hưởng vô cùng lớn đến việc phát triển kinh tế – xã hội cho địa phương.
Phân tích các yếu tố tự nhiên của địa phương nhằm chỉ ra được những điểm mạnh, điểm yếu cơ bản nhất mà địa phương tồn tại trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Để thấy được những điểm mạnh, yếu ta phân tích và trả lời các câu hỏi sau:
Đất đai của địa phương cằn cỗi hay phì nhiêu? Thực trạng sử dụng đất của địa phương ra sao? (Đất dành nhà ở, khu vực công cộng, dành cho nông nghiệp, khu công nghiệp, đất quốc phòng an ninh?…)
Nguồn nước địa phương có đáp ứng tốt nhu cầu sinh hoạt và sản xuất không?
Hệ sinh thái của địa phương có đa dạng, phong phú không?
Điểm mạnh về tự nhiên địa phương là gì? Nó tác động như thế nào đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương?
Điểm yếu về tự nhiên địa phương là gì? Nó tác động như thế nào đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương?
Việc phân tích các yếu tố liên quan đến tự nhiên giúp chúng ta nhìn nhận được địa phương có thuận lợi hay không thuận lợi, có điểm gì mạnh cần phải phát huy, điểm gì yếu cần phải khắc phục để đưa vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương.
Về tổ chức, nhân sự:
Thứ hai, khi phân tích các yếu tố liên quan đến chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương ta không thể không phân tích yếu tố con người. Yếu tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng, triển khai thực hiện các quyết sách của địa phương. Nếu như các yếu tố khác là điều kiện cần thì con người chính là điều kiện đủ để có thể xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội địa phương thành hiện thực.
Việc phân tích về tổ chức, nhân sự mà ở đây chính là bộ máy nhân sự của Đảng, đoàn thể, chính quyền địa phương để làm rõ điểm mạnh, yếu, ta phải trả lời được các câu hỏi sau:
Tổ chức bộ máy nhân sự của Đảng, đoàn thể, chính quyền địa phương có thực sự tinh gọn, hiệu quả không? Còn khó khăn, hạn chế ở những điểm gì? Cần phải tổ chức, sắp xếp bộ máy ra sao, khắc phục như thế nào để hoạt động thực sự hiệu quả?
Nguồn nhân lực hiện có ra sao? Trình độ chuyên môn, chính trị, tin học, ngoại ngữ như thế nào? Điểm mạnh, điểm yếu của nguồn nhân lực là gì? Có đáp ứng được yêu cầu tại thời điểm hiện tại và thời gian tới không? Còn khó khăn, hạn chế ở điểm gì? Cần quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực như thế nào để đáp ứng tốt yêu cầu công việc trong thời gian tới?
Vai trò của người lãnh đạo, tầm nhìn xa hay gần, có tâm, có tầm ảnh hưởng hay không? Đây chính là chìa khóa dẫn đến thành công của một địa phương bởi vì lãnh đạo là người ra quyết định cuối cùng mang nhiều ý chí chủ quan nhất.
Ngoài vai trò của người lãnh đạo thì nhân sự các phòng, ban, cơ quan, đơn vị chức năng chính là then chốt của sự thành công. Địa phương có được đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức giỏi, chuyên nghiệp là điều kiện tiên quyết giúp địa phương đi nhanh hơn, tiến đến đích nhanh hơn trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình.
Ở đây, ta phân tích xem thực trạng cán bộ, công nhân viên chức địa phương như thế nào, có được nhà lãnh đạo giỏi không, cán bộ, công nhân viên chức mạnh ở điểm gì, yếu ở điểm gì để khi phân tích đưa ra phương án chiến lược phù hợp nhất, có giải pháp chiến lược để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ vừa có tâm, lại vừa có tầm đối với sự phát triển của địa phương.
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật:
Thứ ba, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật là cái cơ bản, nền tảng về vật chất cho một địa phương trên con đường phát triển.
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ đáp ứng được các yêu cầu cho sự phát triển về kinh tế, văn hóa xã hội. Khi phân tích ta phải đề cập đến tất cả các yếu tố của cơ sở hạ tầng liên quan đến sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. So sánh, phân tích nêu bật được điểm mạnh, điểm yếu cơ sở hạ tầng của địa phương để khi đưa vào chiến lược, ta luận ra những giải pháp cho các yếu tố đó, cần phải phát huy ở điểm mạnh gì, khắc phục những điểm yếu gì. Cụ thể, ta trả lời được những câu hỏi sau khi phân tích:
Thực trạng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của địa phương? Bao gồm: Hệ thống nhà công vụ (trụ sở các cơ quan, đơn vị, bệnh viện, trường học, chơ, …); Hệ thống giao thông; Hệ thống điện chiếu sáng, sinh hoạt và sản xuất; Hệ thống lọc, phân phối nước; Hệ thống xử lý nước thải; Hệ thống xử lý rác thải; Hệ thống các công trình viễn thông; các phương tiện giao thông công cộng, bến cảng, sân bay….
Những điểm mạnh, điểm yếu hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của địa phương?
Về kinh tế:
Phân tích tình hình kinh tế của địa phương qua các năm nhằm mục đích xem xét địa phương đó có hoành thành các chỉ tiêu kinh tế đề ra hay không, các ngành, lĩnh vực hoạt động có hiệu quả không, phương hướng, giải pháp phát triển có phù hợp với tổng thể phát triển kinh tế – xã hội không. Do kinh tế là yếu tố cơ bản, quyết định đến sự phát triển, tồn vong của các yếu tố khác nên khi phân tích ta phải chú ý đến sự ảnh hưởng, tác động của kinh tế. Để tìm ra được đường lối phát triển kinh tếđúng đắn ta phải biết được thực trạng các thành phần kinh tế địa phương và muốn phát triển kinh tế địa phương ta phải gắn với phát triển tổng thể địa phương một cách toàn diện nhất. Khi phân tích, định hình chiến lược phát triển kinh tế địa phương, ta phải tìm hiểu các vấn đề sau qua một giai đoạn nhất định (thường là từ 5 đến 10 năm), cụ thể:
Các thành phần kinh tế của địa phương gồm những gì? Thực trạng và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế đó? Khó khăn, hạn chế?
Đối với địa phương, các thành phần kinh tế đó đã phát triển chưa, đã đi đúng hướng chưa? Thông thường các thành phần kinh tế địa phương bao gồm: Nông lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ thương mại, …
Tổng số nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển ra sao? Nguồn vốn đó đến từ đâu? Khó khăn, hạn chế?
Tổng thu, chi ngân sách hàng năm? Hoạt động quản lý thu chi ngân sách địa phương có đúng theo quy định của pháp luật không?
Từ phân tích các vấn đề trên, ta rút ra được điểm mạnh, điểm yếu kinh tế địa phương là gì? Nên phát triển kinh tế địa phương theo hướng nào là phù hợp với tổng hòa phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương…
Về văn hóa xã hội:
Như đã đề cập đến tại phần văn hóa xã hội bên ngoài địa phương, thì văn hóa xã hội là một phần của phát triển kinh tế – xã hội. Phân tích về văn hóa xã hội giúp cho chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về xã hội mà chúng ta đang sống. Vì là một phần của phát triển kinh tế – xã hội nền văn hóa và kinh tế có những tác động biện chứng qua lại lẫn nhau. Ở địa phương, văn hóa phong tục, tập quán, lễ hội cũng chính là yếu tố, là sản phẩm giúp địa phương phát triển kinh tế, nhất là phát triển về dịch vụ du lịch.
Khi phân tích về văn hóa xã hội, ta cần trả lời các câu hỏi sau:
Địa phương có nét riêng biệt gì về văn hóa, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể?
Từ thực tế cuộc sống địa phương, từ nguồn lực sẵn có, ta có thể tạo ra nét văn hóa riêng biệt, độc đáo mới không? Vừa đáp ứng nhu cầu cuộc sống tinh thần cho nhân dân bản địa vừa là yếu tố hấp dẫn du khách thập phương đến với địa phương nhằm mục đích phát triển dịch vụ du lịch, nâng cao đời sống vật chất cho bà con?
Như vậy, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội địa phường. Vì văn hóa chính là yếu tố cơ bản, là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của con người, là động lực để phát triển kinh tế nói chung, phát triển dịch vụ du lịch nói riêng.
Về áp dụng khoa học công nghệ:
Khoa học công nghệ có vai trò vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nói chung và của mỗi địa phương nói riêng.
Có khoa học công nghệ, cuộc sống của con người mới phát triển và muốn cuộc sống con người phát triển thì phải có khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ giúp cải thiện cuộc sống, đáp ứng nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng của con người.
Khi phân tích về khoa học công nghệ, ta phân tích về:
Thực trạng áp dụng khoa học công nghệ của địa phương nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Còn những khó khăn, vướng mắc gì mà địa phương chưa thể áp dụng khoa học công nghệ? Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ (nhân lực) làm chủ công nghệ hay khó khăn về khí hậu, giao thông đi lại, …(chủ quan, khách quan)?
Đối với địa phương cần cải thiện những gì để có thể áp dụng khoa học công nghệ đáp ứng nhu cầu cuộc sống của nhân dân và sản xuất? (Kêu gọi đầu tư?)
Khoa học công nghệ chính là động lực giúp địa phương trên con được phát triển kinh tế – xã hội.
3.3. Nhận dạng các phương án chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
Mỗi địa phương để thành công đều phải có một chiến lược. Tuy nhiên, địa phương đó lại rất khác nhau về vị thế, môi trường bên trong và bên ngoài, nguồn lực hữu hạn, kể cả trong cùng một tỉnh, thành phố, cùng một quốc gia hay tương đồng về vị trí địa lý….. Điều đó đòi hỏi mỗi địa phương để phát triển thành công thì cần phải có một chiến lược phù hợp.
Trên thế giới cũng như Việt Nam đang sử dụng rất nhiều các công cụ xây dựng chiến lược giúp cho các tổ chức lựa chọn cho mình một chiến lược thích hợp như: Ma trận SWOT, ma trận I-E, ma trận hình ảnh cạnh canh…. Một trong số chúng, được sử dụng thông dụng nhất chính là ma trận SWOT (kỹ thuật phân tích thế mạnh – điểm yếu – cơ hội và nguy cơ) giúp địa phương nhận dạng các phương án chiến lược và lựa chọn phương án chiến lược tối ưu cho phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
SWOT được ghép bởi 4 chữ cái đầu tiên của các từ Strengths (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu), Opportunities (cơ hội) và Threats (nguy cơ).
“Trong thập niên 60-70 một nhóm các nhà khoa học có Marion Dosher, Ts. Otis Benepe, Albert Humphrey, Robert Stewart và Birger Lie nghiên cứu nguyên nhân vì sao nhiều công ty thất bại trong việc thực hiện kế hoạch. Trong cuộc khảo sát này bao gồm 500 công ty có doanh thu cao nhất do tạp chí Fortune bình chọn và được tiến hành tại Viện Nghiên cứu Standford. Từ đó mô hình SWOT ra đời.
Ban đầu mô hình này được Albert cùng các cộng sự của mình đặt với tên SOFT: Thỏa mãn ( Satisfactory) – Điều tốt trong hiện tại, Cơ hội ( Opportunity) – Điều tốt trong tương lai, Lỗi ( Fault) – Điều xấu trong hiện tại; Nguy cơ ( Threat) – Điều xấu trong tương lai.
Đến năm 1964 sau khi được giới thiệu Orr tại Zurich Thuỵ Sĩ, họ đã đổi F ( Fault) thành W (Weakness) và SWOT ra đời từ đó. Đến năm 1966 thì phiên bản đầu tiên được thử nghiệm và giới thiệu đến công chúng dựa trên công trình nghiên cứu tại tập đoàn Erie Technological. Năm 1973, SWOT được sử dụng tại J W French Ltd và thực sự phát triển từ đây. Đầu năm 2004, SWOT đã được hoàn thiện và cho thấy khả năng hữu hiệu trong việc đưa ra cũng như thống nhất các mục tiêu của tổ chức mà không cần phụ thuộc vào tư vấn hay các nguồn lực tốn kém khác” [20].
Như vậy, công cụ xây dựng chiến lược này có điểm mạnh là đơn giản, dễ thực hiện, không tốn chi phí tư vấn, hữu ích trong mọi hoàn cảnh, không chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp mà có thể áp dụng cho mọi tổ chức, đặc biệt là cho các địa phương đang gặp khó khăn, hạn chế trong quá trình phát triển.
3.4. Phân tích, dự báo những tác động của môi trường bên ngoài, môi trường bên trong đến phát triển kinh tế xã hội của địa phương
Trên cơ sở phân tích môi trường bên ngoài, thực trạng nguồn nội lực bên trong địa phương, ta cần phải dự báo được nhu cầu, xu hướng phát triển để xác định tầm nhìn và mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương một cách phù hợp nhất.
Đối với môi trường bên ngoài địa phương: Dự báo về các yếu tố tự nhiên, chính trị, tình hình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế. Những yếu tố đó theo thời gian sẽ thay đổi như thế nào, phát triển đi lên hay theo một hướng đi khác?
Đối với địa phương: Dự báo về nhu cầu, tiềm năng phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; những tác động từ môi trường bên ngoài đến sự phát triển đó?
3.5. Xác định tầm nhìn, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội địa phương
Để chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương phát huy được vai trò của mình thì việc địa phương phải xác định được tầm nhìn, mục tiêu để hướng đến là vô cùng quan trọng. Lấy tầm nhìn, mục tiêu đó làm cái đích cuối cùng để triển khai thực hiện các giải pháp chiến lược và tránh cho địa phương đó không đi chệch hướng.
Để xác định được tầm nhìn, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội địa phương, các nhà lãnh đạo, hoạch định phải căn cứ vào vị trí địa lý, điểm mạnh, điểm yếu của địa phương, tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cụ thể qua phân tích môi trường bên ngoài, bên trong của địa phương; dự báo xu hướng tương lai để định hình được tầm nhìn và mục tiêu chiến lược.
Ta không thể xác định tầm nhìn của địa phương là trở thành một thành phố cảng lớn hiện đại mà không có biển, một thành phố công nghiệp mà không thuận lợi về giao thông, trở thành trung tâm du lịch cấp vùng mà chỉ có số ít các điểm du lịch hay trở thành một thành phố văn minh hiện đại trong khi còn là một tỉnh nghèo, đất nước đang suy giảm về kinh tế…..
Cụ thể như thành phố Hải Phòng, được xác định là thành phố cảng quan trọng,trung tâm công nghiệp, cảng biển lớn nhất phía Bắc Việt Nam, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học, thương mại và công nghệ của Vùng duyên hải Bắc Bộcũng là dựa trên quá trình hình thành và phát triển thành phố. Hải Phòng đã được xây dựng và phát triển từ thời Pháp thuộc, có vị trí địa lý rất thuận lợi, phía Đông tiếp giáp với biển, sông ngòi dày đặc, giao thông thuận tiện, có sân bay, cảng biển lớn, …
3.6. Đề xuất chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
Từ 04 chiến lược đã được nhận dạng, phân tích, kết hợp với tầm nhìn, mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội địa phương đã được chọn lựa, ta đề xuất chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương một cách hợp lý nhất.
3.7. Giải pháp tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
Để tổ chức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương, ta phải có những giải pháp cụ thể.
Ví như các giải pháp về giải pháp về nhân sự; giải pháp về bảo vệ tự nhiên, môi trường sống; giải pháp về tăng trưởng kinh tế, giải pháp về phát triển văn hóa xã hội; giải pháp về áp dụng khoa học công nghệ…. để khắc phục điểm yếu của địa phương, tận dụng những cơ hội đầu tư từ bên ngoài.
Các giải pháp này được chia làm nhiều giai đoạn. Căn cứ vào thực trạng kinh tế – xã hội của địa phương, căn cứ vào tầm nhìn, mục tiêu mà địa phương ta có những giải pháp tại thời điểm, giai đoạn thích hợp nhất.
Tại giai đoạn đầu thực hiện chiến lược, ta có giải pháp gì trước, cái gì cần phải làm trước tạo tiền đề cho cái sau, giai đoạn sau phát triển. Trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, có rất nhiều việc đan xen lẫn nhau mà nếu không nhìn nhận, phân tích cụ thể, ta không thể thực hiện được chiến lược. Cũng giống như việc không có hệ thống cung cấp điện ổn định, ta không thể phát triển sản xuất công nghiệp, không có hệ thống thu gom, xử lý chất thải, nước thải tốt ta không thể phát triển du lịch được….
Mỗi giải pháp riêng rẽ nhưng đều nhằm mục đích đảm bảo cho cái chung là phát triển kinh tế – xã hội địa phương trong tổng hòa phát triển kinh tế xã hội của đất nước và phát triển kinh tế – xã hội phải gắn với bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ của quốc gia.
3.8. Đánh giá, điều chỉnh quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội địa phương
Không một chiến lược nào hoàn hảo trong quá trình thực hiện từ khi bắt đầu cho đến khi đạt được mục tiêu. Ta phải khẳng định điều đó bởi, chiến lược là một chuỗi các hoạt động liên tục, lâu dài, không phải một hay hai năm và trong môi trường biến động không ngừng.
Trên cơ sở nguồn lực hiện tại, dự đoán tương lai ta đúc rút ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội địa phương một cách phù hợp nhất. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chiến lược, cuộc sống con người luôn luôn biến động, biến động về môi trường tự nhiên, môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, sự phát triển của khoa học công nghệ, hội nhập quốc tế… nên ta phải đánh giá, điều chỉnh lại các giải pháp thực hiện chiến lược cho phù hợp với tầm nhìn, mục tiêu của địa phương.
Nếu tầm nhìn, mục tiêu địa phương thay đổi, ta phải thay thế bằng một chiến lược khác phù hợp với tầm nhìn, mục tiêu mới.
Để lại một bình luận