Trong bài viết sau đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn vai trò và nội dung của đầu tư phát triển công nghiệp.
1. Ngành công nghiệp và vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế
1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại ngành công nghiệp
1.1.1. Khái niệm ngành công nghiệp
Công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “ chế tạo, chế biến ” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh của các tiến bộ công nghệ, khoa học và kỹ thuật.
Công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất – một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất xã hội. Công nghiệp bao gồm ba hoạt động chủ yếu là:
Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy
Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông lâm ngư nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội.
Hoạt động dịch vụ sửa chữa các loại sản phẩm công nghiệp nhằm khôi phục giá trị sử dụng của chúng.
Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động của phân công lao động xã hội kết hợp với tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành nên hệ thống các ngành công nghiệp: khai thác, chế biến và dịch vụ sửa chữa. Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Tính chất của hoạt động này là cắt đứt các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên. Chế biến là hoạt động sử dụng sự tác động của cơ học, hóa học và sinh học làm thay đổi hình thức, tính chất, kích thước của các loại nguyên liệu nguyên thủy để tạo ra các loại sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến ra sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và tiêu dùng trong đời sống. Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra được một loại sản phẩm tương ứng, và cũng có thể là một loại sản phẩm nào đó được tạo ra từ những loại nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất công nghiệp để đưa vào sử dụng trong sản xuất hoặc tiêu dùng trong đời sống.
Sửa chữa là hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất và kéo dài thời gian sử dụng của các sản phẩm dùng trong đời sống. Công nghiệp sửa chữa là hình thức có sau so với công nghiệp khai thác và chế biến. Lúc đầu các hoạt động này được thể hiện ngay trong các ngành công nghiệp khai thác, chế biến và trong đời sống sinh hoạt của dân cư và do lực lượng lao động chính trong các ngành và lĩnh vực đó thực hiện. Sau đó, với sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong các ngành sản xuất, dịch vụ, và do sự phát triển đa dạng hóa của sản phẩm tiêu dùng trong sinh hoạt, hoạt động sửa chữa có tính chất xã hội.
Với những nội dung được khái quát, trình bày ở trên có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó là bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Và nếu xét trên góc độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất thì công nghiệp còn được cụ thể hóa bằng các khái niệm khác nhau: công nghiệp và tiểu thụ công nghiệp, công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh…
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
1.2. Đặc điểm của ngành công nghiệp
Nếu xét trên góc độ tổng hợp của các mối quan hệ của con người trong hoạt động sản xuất thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội nên nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế như nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng… Song xét trên phương diện tính chất tương tự của công nghệ sản xuất, có thể coi là tổng thể của hai ngành cơ bản đó là nông nghiệp và công nghiệp, còn các ngành khác có thể là các dạng đặc thù của hai ngành đó.
Từ ý nghĩa đó, cần phải xem xét các đặc điểm của sản xuất công nghiệp khác với sản xuất nông nghiệp trên cả hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế – xã hội của sản xuất.
Thứ nhất, các đặc trưng về mặt kỹ thuật – sản xuất của công nghiệp được thể hiện như sau:
Về công nghệ sản xuất: do sản xuất trong công nghiệp chủ yếu sử dụng các phương pháp cơ học, lý học và quá trình sinh học nhằm làm biến đổi hình dáng kích thước và tính chất của nguyên liệu để tạo ra các sản phẩm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, trong khi đó, sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu. Trong hoạt động lao động sản xuất, các phương pháp cơ, lý hóa chỉ (làm đất, chăm sóc, thu lợi…) chỉ là những tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để phương pháp sinh học được thực hiện, làm biến đổi đối tượng lao động là cây trồng, vật nuôi, từ đó hình thành và phát triển, tạo ra các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học – công nghệ thích ứng với mỗi ngành.
Về sự biến đổi các đối tượng lao động sau mỗi chu kỳ sản xuất: các đối tượng lao động của quá trình sản xuất công nghiệp, sau mỗi chu kỳ sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có các công dụng khác nhau. Trong khi đó, đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất thiết thực trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến, khai thác và sử dụng tổng hợp nguyên liệu.
Về công dụng kinh tế của sản phẩm: trong khi sản phẩm nông nghiệp chủ yếu đáp ứng nhu cầu ăn uống của con người và dùng làm nguyên liệu cho một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thì sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu của sản xuất và đời sống, phát triển khoa học công nghệ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp là ngành kinh tế duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó.
Về mức độ ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến quá trình sản xuất: Bản thân các ngành công nghiệp khác nhau chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên với mức độ khác nhau: các ngành công nghiệp khai thác chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên với mức độ lớn hơn các ngành công nghiệp chế biến. Với sự phát triển của khoa học công nghệ công nghiệp vẫn có thể phát triển mạnh trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Thứ hai, đặc trưng kinh tế – xã hội của sản xuất:
Về trình độ xã hội hóa sản xuất: công nghiệp là ngành có trình độ xã hội hóa cao. Một sản phẩm công nghiệp thường là kết tinh lao động của nhiều đơn vị khác nhau, các đơn vị này có thể trong cùng một tổ chức, hoặc những tổ chức khác nhau được phân bổ ở những địa điểm khác nhau, thậm chí ở những nước khác nhau. Sự liên kết giữa chúng, từ khâu nghiên cứu thiết kế sản phẩm đến khâu tiêu thụ sản phẩm và thực hiện những dịch vụ sau bán hàng tạo thành chuỗi liên kết ràng buộc chặt chẽ với nhau. Quan hệ liên kết này không chỉ được thực hiện giữa các ngành với nhau, không chỉ giữa các doanh nghiệp trong phạm vi một nước, mà còn ở phạm vi giữa các nước.
+Về đội ngũ lao động: sự phát triển của công nghiệp kéo theo sự phát triển của đội ngũ lao động công nghiệp. Do đặc điểm kỹ thuật sản xuất, công nghiệp đại diện cho phương thức sản xuất mới trong quá trình sản xuất công nghiệp đào tạo ra được một đội ngũ lao động có tư duy, có tác phong và kỷ luật cao, nhanh nhạy với sự thay đổi của môi trường và có những đổi mới mang tư duy cách mạng. Đội ngũ lao động đó trong giai cấp công nhân luôn luôn là bộ phận tiên tiến trong cộng đồng dân cư của mỗi quốc gia.
Về quản lý công nghiệp: do đặc trưng kỹ thuật sản xuất ngày càng hiện đại, trình độ xã hội ngày càng được nâng cao, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, quản lý quá trình sản xuất công nghiệp được thực hiện hết sức chặt chẽ và khoa học. Đó là điều kiện để đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra liên tục với hiệu quả kinh tế cao. Các phương pháp quản lý công nghiệp ngày càng hoàn thiện gắn liền với những ứng dụng những thành tựu mới của khoa học công nghệ và để đáp ứng với trình độ khoa học công nghệ ngày càng hiện đại. Các mô hình và phương pháp quản lý công nghiệp thường được coi là hình mẫu cho đổi mới quản lý các ngành kinh tế quốc dân, trong đó có nông nghiệp.
Nghiên cứu các đặc trưng về mặt kinh tế – xã hội của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thiết thực trong việc nhận thức rõ hơn những ưu thế của công nghiệp, điều kiện đảm bảo công nghiệp có những vai trò lãnh đạo dẫn dắt các ngành kinh tế quốc dân trong quá trình xây dựng nền sản xuất lớn.
1.3. Phân loại ngành công nghiệp
– Thứ nhất, phân loại căn cứ vào công dụng kinh tế của sản phẩm:
Theo công dụng kinh tế của sản phẩm, ngành công nghiệp được chia thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Ngoài ra, còn sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp của các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu sản xuất là chủ yếu, đặc biệt là tư liệu lao động, còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu. Căn cứ của sự phân loại này là dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm được sản xuất ra là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. Đây là các phân loại có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng quy tắc tái sản xuất mở rộng để xây dựng mô hình cơ cấu công nghiệp phù hợp cho một nền kinh tế, trong mỗi thời kỳ phát triển nhất định.
-Thứ hai, phân loại căn cứ vào phương thức tác động đến đối tượng lao động:
Theo căn cứ phân loại này, công nghiệp được chia thành hai nhóm ngành: công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến. Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự nhiên, tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thủy. Công nghiệp chế biến thì làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thủy thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các loại sản phẩm cuối cùng. Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tài nguyên và chế biến tài nguyên trong nền kinh tế của mỗi quốc gia.
– Thứ ba, phân loại căn cứ vào sự tương đồng về kinh tế – kỹ thuật.
Hệ thống công nghiệp được cấu thành từ nhiều phân hệ. Mỗi phân hệ lại được cấu thành từ nhiều phân tử, mà mỗi phân tử là một doanh nghiệp công nghiệp. Trong đó, có những doanh nghiệp công nghiệp có sự tương đồng về công dụng cụ thể của sản phẩm, về công nghệ sản xuất, về nguyên vật liệu sử dụng và về cơ cấu lao động. Dựa vào một trong những tương đồng của các doanh nghiệp công nghiệp đó có thể xếp chúng vào những ngành công nghiệp chuyên môn khác nhau (trong thực tế còn gọi là ngành kinh tế – kỹ thuật). Chẳng hạn như hiện nay, ngành công nghiệp được phân chia thành 4 nhóm ngành chuyên môn hóa cấp I là: ngành công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế biến chế tạo, công nghiệp sản xuất phân phối điện khí đốt hơi nóng và điều hòa không khí, và ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải.
-Thứ tư, phân loại căn cứ vào hình thức sở hữu:
Tương ứng với các hình thức sở hữu khác nhau, các doanh nghiệp công nghiệp được sắp xếp vào các thành phần kinh tế khác nhau: công nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, công nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước và công nghiệp thuộc khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
-Thứ năm, phân loại căn cứ vào trình độ trang bị kỹ thuật:
Theo căn cứ phân loại này công nghiệp được chia thành hai bộ phận: công nghiệp hiện đại và công nghiệp thủ công. Sản xuất thủ công sẽ dần được thay thế bằng máy móc thiết bị, nhưng có những loại sản xuất hoặc những bộ phận nhất định trên dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị không thể thay thế được lao động thủ công. Chẳng hạn, trong một số ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, lao động thủ công sẽ tạo ra những sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc phục vụ cho xuất khẩu.
Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế thành phần, trong việc tổ chức sản xuất và đầu tư vào việc ứng dụng học và công nghệ trong công nghiệp.
Như vậy, có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong phân loại ngành công nghiệp. Tuy nhiên, trong đề tài khi nghiên cứu về đầu tư phát triển ngành công nghiệp tác giả xin được tiếp cận theo góc độ phân loại ngành công nghiệp dựa trên căn cứ sự tương đồng về kinh tế – kỹ thuật.
2. Vai trò ngành công nghiệp trong nền kinh tế
Công nghiệp là một trong những ngành sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất lớn cho xã hội, có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, là ngành giữ vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vai trò chủ đạo này được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, công nghiệp định hướng về tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý cho các ngành kinh tế. Sự định hướng và chi phối sự phát triển trình độ tổ chức sản xuất xã hội của ngành như sau:
Vạch ra kiểu mẫu về tổ chức sản xuất, về phân công lao động xã hội nhằm đảm bảo hiệu quả cao nhất vừa thích ứng với trình độ kỹ thuật được nâng cao, vừa thúc đẩy nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất.
Sự thay đổi về tổ chức sản xuất và phân công lao động xã hội được thực hiện bởi “mô hình công nghiệp”, tạo ra những điều kiện để ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, đồng thời cũng là các tác nhân thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong mỗi ngành kinh tế.
Những thay đổi trên đây sẽ thúc đẩy sự thay đổi các mặt của quan hệ sản xuất, từ quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý đến quan hệ phân phối nhằm đảm bảo sự phù hợp với trình độ ngày càng được nâng cao và tính chất xã hội ngày càng được mở rộng của lực lượng sản xuất.
Hai là, công nghiệp tạo điều kiện vật chất để thực hiện yêu cầu trang bị và trang bị lại kỹ thuật cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Vai trò này được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Phạm vi và trình độ trang bị kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân phụ thuộc chủ yếu vào khả năng sản xuất của công nghiệp, trước hết là của các ngành công nghiệp nặng chủ chốt. Trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp là ngành duy nhất sản xuất và cung ứng các loại tư liệu sản xuất phục vụ các nội dung của tiến bộ khoa học kỹ thuật, nên sự phát triển của công nghiệp nặng với trình độ kỹ thuật, quy mô và cơ cấu hợp lý sẽ là điều kiện đảm bảo tốc độ và phạm vi thực hiện tiến bộ công nghệ trong các ngành kinh tế quốc dân.
Công nghiệp hướng dẫn các ngành kinh tế sử dụng các điều kiện vật chất mà nó cung ứng. Việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm vật chất ấy là điều kiện đủ để chúng phát huy tác dụng trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát triển bền vững của từng ngành kinh tế.
Ba là, công nghiệp là nhân tố chủ yếu góp phần thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội của đất nước.
Sự phát triển rộng rãi công nghiệp trên cơ sở khai thác các ngành và phát huy lợi thế của các vùng lãnh thổ, đẩy mạnh giao lưu trao đổi giữa các vùng lãnh thổ sẽ giảm chênh lệch về kinh tế – xã hội giữa các vùng trên đất nước.
Sự phát triển công nghiệp về quy mô, tốc độ và trình độ sẽ kéo theo sự gia tăng cả về số lượng và chất lượng đội ngũ công nhân. Hơn nữa, việc sử dụng các sản phẩm và phương pháp công nghiệp trong các ngành kinh tế cũng làm thay đổi căn bản tính chất lao động của các ngành. Những yếu tố đó đã làm thay đổi cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ.
Sự phát triển công nghiệp tập trung là hạt nhân kinh tế của việc hình thành các cụm dân cư, các khu đô thị mới.
Bốn là, sự phát triển của công nghiệp thúc đẩy sự thay đổi ý thức xã hội tư duy và lối sống.
Sự phát triển của công nghiệp kéo theo sự phát triển của giai cấp công nhân công nghiệp. Từ đó, ý thức hệ của giai cấp công nhân đại công nghiệp – giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới sẽ trở thành ý thức hệ chủ đạo của hình thái kinh tế xã hội mới.
2.1. Vai trò và nội dung đầu tư phát triển công nghiệp
2.1.1. Khái niệm và vai trò đầu tư phát triển công nghiệp
2.1.1.1. Khái niệm đầu tư phát triển công nghiệp
Đầu tư phát triển công nghiệp là quá trình thực hiện sự chuyển hóa vốn bằng tiền thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh các sản phẩm công nghiệp, tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật, năng lực sản xuất-kinh doanh mới, thông qua việc mua sắm lắp đặt thiết bị, máy móc, xây dựng nhà xưởng, vật kiến trúc và tiến hành các công việc có liên quan đến sự phát huy tác dụng của các cơ sở vật chất do hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp tạo ra.
Do vậy, đầu tư phát triển công nghiệp vừa là nhiệm vụ chiến lược, vừa là một giải pháp chủ yếu để thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội, tăng trưởng cao, ổn định và bền vững. Bất kỳ xã hội nào, muốn có tốc độ tăng trưởng cao, đời sống nhân dân được cải thiện đều phải quan tâm đến đầu tư phát triển, đặc biệt, là đầu tư phát triển công nghiệp xuất phát từ vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế.
2.1.1.2. Đặc điểm đầu tư phát triển công nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp có đầy đủ các đặc điểm của đầu tư phát triển nói chung. Nhưng do đặc trưng của ngành công nghiệp, nên đầu tư phát triển công nghiệp có những đặc điểm nổi bật sau:
∗ Quy mô vốn lớn, vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn.
Một trong những đặc trưng cơ bản của đầu tư phát triển là: quy mô vốn đầu tư lớn. Đối với ngành công nghiệp, do đặc điểm kỹ thuật của các ngành này thì điều đó càng thể hiện rõ nét hơn vì nhu cầu đầu tư phát triển công nghiệp lớn hơn nhiều so với các ngành nông nghiệp và dịch vụ. Đặc điểm kinh tế – kỹ thuật này thể hiện ở chỗ các tài sản cố định và đầu tư dài hạn của công nghiệp là rất lớn. Các ngành có đặc điểm này rõ nhất là các ngành công nghiệp khai thác (than, dầu mỏ, khí đốt…) công nghiệp thuộc kết cấu hạ tầng (sản xuất và truyền dẫn điện, sản xuất và truyền dẫn nước, công nghiệp xây dựng…) công nghiệp phục vụ nông nghiệp (cơ khí, hoá chất). Các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp cơ khí, công nghiệp thuộc kết cấu hạ tầng có giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn, kết quả của đầu tư phát triển lớn gấp nhiều lần các cơ sở công nghiệp khác.
Mặc dù đầu tư phát triển công nghiệp là khoản vốn lớn, thu hồi chậm nhưng rất cần cho nền kinh tế. Với nhiệm vụ chi đầu tư phát triển công nghiệp như vậy, quy mô và tỷ trọng đầu tư phát triển công nghiệp trong thực tế là rất lớn.
∗ Quá trình thực hiện đầu tư kéo dài, thời gian thu hồi vốn chậm.
Bản thân hoạt động đầu tư phát triển đã mang đặc điểm là thời gian thực hiện đầu tư kéo dài. Khoảng thời gian từ lúc chuẩn bị đầu tư đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng, thời gian để thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường rất lớn. Đầu tư phát triển công nghiệp là một loại đầu tư có thời gian thực hiện dài nhất so với đầu tư vào các ngành khác. Bởi hoạt động sản xuất công nghiệp thường phức tạp, đòi hỏi vốn lớn và kỹ thuật ngày càng cao. Chính vì vậy mà quá trình chuẩn bị đầu tư, quá trình thực hiện dự án và cả quá trình hậu dự án thường rất dài. Có những ngành công nghiệp thời gian thực hiện dự án kéo dài từ mười năm năm, hai mươi năm thậm chí ba mươi năm như ngành khai thác than, sản xuất điện. Chính vì thời gian thực hiện và thu hồi vốn kéo dài như vậy mà hoạt động đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế… có độ rủi ro cao. Do vậy, các nhà đầu tư trước khi đầu tư phải cân nhắc cẩn thận trước khi có quyết định đầu tư chính thức để tránh tình trạng thua lỗ, không thu hồi vốn đầu tư.
∗ Các tài sản cố định trong công nghiệp hao mòn vô hình ngày càng lớn.
Đây là đặc điểm mà trong phân tích và hoạch định chính sách đầu tư phát triển công nghiệp cần hết sức lưu ý vì nó sẽ quy định tuổi thọ của tài sản cố định trong ngành công nghiệp. Sự cảnh báo về nguy cơ tụt hậu về kỹ thuật nói chung sẽ trở thành sự cảnh báo hao mòn vô hình ngày càng lớn trong đầu tư phát triển công nghiệp.
Đầu tư phát triển công nghiệp có những đặc điểm sau:
Tiền vốn, vật tư, lao động cần cho hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp thường là rất lớn. Nhờ vậy mới có điều kiện tăng năng lực sản xuất mới và có sức cạnh tranh cao. Chẳng hạn, đầu tư xây dựng nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp tập trung… phải cần một lượng vốn không nhỏ.
Thời gian cần thiết cho việc tiến hành hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp thường kéo dài do yêu cầu của thời gian thi công xây dựng. Thời gian này vốn đầu tư không tham gia quá trình sản xuất nên không sinh lợi. Đặc điểm này, đòi hỏi các chủ đầu tư phải lựa chọn phương án thi công một cách hợp lý nhằm sớm đưa dự án vào sử dụng.
Thời gian thu hồi vốn đầu tư dài do vòng đời của dự án quyết định. Có trường hợp kéo dài hàng chục năm. Vì vậy, đầu tư phát triển công nghiệp chịu nhiều rủi ro, do các yếu tố không ổn định của thiên nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, cơ chế, chính sách… do đó, hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp thường có độ mạo hiểm cao.
Kết quả của hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp là các công trình, vật kiến trúc như nhà máy, hầm mỏ, khu công nghiệp, các công nghệ sản xuất… gắn liền lâu dài với không gian tạo ra nó, từ đó, yêu cầu công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư phải được xem xét, tính toán kỹ lưỡng trên tất cả các khía cạnh nhằm đảm bảo hiệu quả đầu tư. Vì vậy, hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp chỉ tiến hành trên cơ sở các dự án đầu tư khả thi, hiệu quả.
Đầu tư phát triển công nghiệp gắn liền với mua sắm thiết bị, công nghệ đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Để đầu tư đạt hiệu quả cao, chủ đầu tư cần lựa chọn công nghệ thích hợp, vừa đảm bảo năng suất lao động, chất lượng, mẫu mã sản phẩm, vừa khai thác được nguồn lực trong nước để phát huy lợi thế trong cạnh tranh. Cần đặc biệt chú ý nhận chuyển giao cả bốn thành phần của công nghệ: phần cứng (máy móc), phần thông tin (bí quyết), phần tổ chức và phần con người (đào tạo kỹ năng vận hành…).
Trong trường hợp đầu tư phát triển công nghiệp bằng vốn nhà nước, chủ đầu tư chỉ là người sử dụng vốn nên cần có cơ chế quản lý chặt chẽ đi liền với việc kiểm tra giám sát để hạn chế tiêu cực, thất thoát, lãng phí. Còn vốn đầu tư không phải của Nhà nước, chủ đầu tư là chủ sở hữu vốn đích thực nên cơ chế quản lý đơn giản, thủ tục gọn nhẹ hơn.
Đầu tư phát triển công nghiệp được thực hiện qua 3 giai đoạn, với những nội dung chủ yếu như sau:
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư bao gồm:
Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước hoặc ngoài nước để tìm nguồn cung ứng các yếu tố đầu vào, công nghệ và tiêu thụ sản phẩm. Xem xét khả năng có thể huy động các nguồn vốn để đầu tư và lựa chọn các hình thức đầu tư.
Lựa chọn công nghệ, phương hướng đổi mới công nghệ.
Lập dự án tiền khả thi, khả thi.
Thẩm định dự án để quyết định đầu tư.
Giai đoạn thực hiện đầu tư, bao gồm:
Tổ chức chọn nhà thầu tư vấn (khảo sát, thiết kế, giám sát kỹ thuật và chất lượng công trình).
Thẩm định thiết kế, tổng dự toán, dự toán công trình.
Tổ chức đấu thầu thi công xây lắp và mua sắm thiết bị, công nghệ.
Xin giấy phép xây dựng và giấy phép khai thác tài nguyên (nếu có).
Ký hợp đồng với các tổ chức có liên quan để thực hiện dự án.
Thi công, lắp đặt máy móc thiết bị và nhận chuyển giao công nghệ.
Giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác, sử dụng:
Bàn giao.
Vận hành dự án.
2.1.2. Vai trò, tác động của đầu tư phát triển công nghiệp
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế… do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Đầu tư phát triển công nghiệp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy thuộc vào mục tiêu của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành.
Theo chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược CNH-HĐH đất nước thì ngành công nghiệp được xác định là một ngành quan trọng trong nền kinh tế của một nước. Bởi vì ngành công nghiệp là ngành có khả năng tăng trưởng nhanh, cao và ổn định, ngành công nghiệp bị hạn chế về đất đai và mặt khả năng sinh học của động thực vật nên để đạt tốc độ tăng trưởng cao là rất khó, ngành dịch vụ thì cũng chỉ mới bắt đầu phát triển trong những năm gần đây. Hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp có tác động quan trọng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù hợp với quy luật và chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối mới trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, phát huy nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Vốn đầu tư vào ngành công nghiệp nhiều hay ít, việc sử dụng vốn đầu tư hiệu quả cao hay thấp… trên phạm vi một nước đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, khả năng tăng cường cơ sở vật chất của ngành công nghiệp. Từ đấy tạo tiền đề khuyến khích phát triển ngành công nghiệp, dịch vụ, phát triển các ngành mới, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành.
Đầu tư phát triển công nghiệp với tăng cường năng lực khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và quốc gia. Công nghệ bao gồm các yếu tố cơ bản: phần cứng (máy móc thiết bị); phần mềm (các văn bản, tài liệu, các bí quyết…) yếu tố con người (các kỹ năng quản lý, kinh nghiệm); yếu tố tổ chức (các thể chế, phương pháp tổ chức…). Muốn có công nghệ, cần phải đầu tư vào các yếu tố cấu thành.
Đầu tư cho công nghệ trong ngành công nghiệp trên phạm vi cả nước ở mỗi thời kỳ tuy khác nhau, nhưng đều mang đặc điểm chung của nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu nên giai đoạn đầu thường đầu tư vào các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, sau đó, giảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong quá trình sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đối và sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu và ứng dụng. Đối với Lào, công nghệ có được hầu hết là nhập khẩu từ bên ngoài, số lượng công nghệ tự nghiên cứu triển khai và ứng dụng là rất hạn chế. Một phần là do trình độ, do khả năng đáp ứng về vốn đầu tư dành cho hoạt động nghiên cứu còn hạn chế, phần vốn dành cho hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vào trong sản xuất công nghiệp còn ít và chưa tập trung. Mặt khác, công nghệ của Lào còn rất lạc hậu so với mức trung bình trung của thế giới, nếu không nhanh chóng có biện pháp, chính sách đầu tư thích hợp cho công nghệ thì sản phẩm của nền công nghiệp Lào sẽ không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp của các nước trên thế giới. Đó là dấu hiệu cho thấy sự phát triển chưa thật sự trong tương lai.
Đầu tư phát triển công nghiệp với tiến bộ xã hội và môi trường là đầu tư giữ vai trò quan trọng, quyết định trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế đồng thời là một nhân tố gián tiếp góp phần xây dựng một xã hội tiến bộ. Đầu tư hợp lý, trọng tâm trọng điểm và đồng bộ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, qua đó nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện mức sống vật chất, tiếp cận các dịch vụ cơ bản của xã hội như y tế, giáo dục. Hoạt động đầu tư cũng trực tiếp cung cấp tạo công ăn việc làm cho người dân, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Với các kế hoạch, mục tiêu đặt ra trong công tác huy động vốn và nguồn lực vào ngành công nghiệp nói riêng và các ngành khác nói chung, thì thông qua hoạt động sử dụng vốn, đầu tư đã khắc phục và giảm bớt sự ô nhiễm, cân bằng lại môi trường sinh thái. Những hình thức đầu tư phát triển sản xuất sử dụng nguyên liệu tái chế, tận dụng, tiết kiệm…tài nguyên môi trường là những tác động tích cực của đầu tư phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực vẫn còn những hạn chế mà đầu tư phát triển công nghiệp mang lại, ô nhiễm môi trường chính là hậu quả hoạt động đầu tư. Phát triển kinh tế cũng đồng thời lấy đi các nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn. Nếu không có biện pháp cân đối, tiết kiệm thì hậu quả mất cân bằng sinh thái, các hiểm họa về môi trường sẽ xảy ra. Môi trường vừa là đầu vào, vừa là đầu ra của hoạt động đầu tư phát triển. Tác động của đầu tư đến môi trường có thể trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng nó chính là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của nền kinh tế.
Đầu tư phát triển công nghiệp đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp là muốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp thì đòi hỏi phải tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt trang thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ công nghiệp đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất – kỹ thuật của các cơ sở này bị hao mòn (kể cả vô hình và hữu hình), hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường (tái sản xuất giản đơn) cần tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất-kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới (tái sản xuất mở rộng) để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học – kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là đầu tư. Như vậy, đầu tư là điều kiện tiên quyết để hình thành nên các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp, đồng thời đầu tư cũng là điều kiện để duy trì và mở rộng, nâng cao năng lực sản xuất của các cơ sở sản xuất kinh doanh này.
Đầu tư phát triển công nghiệp góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, thúc đẩy các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát triển:
Giữa đầu tư phát triển công nghiệp và tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đầu tư phát triển công nghiệp là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng của giá trị sản xuất công nghiệp, nếu đầu tư phát triển công nghiệp đạt hiệu quả cao, tức là phần chi phí trung gian trong giá trị sản xuất chiếm tỷ lệ thấp thì tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) sẽ đạt ở mức cao.
Như vậy, muốn đạt được tốc độ tăng trưởng cao cần phải tăng cường đầu tư, đặc biệt, là đầu tư công nghiệp. Đầu tư phát triển công nghiệp ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế về cả hai mặt, nhu cầu và sản xuất. Đầu tư tăng lên làm cho nhu cầu tiêu thụ tăng lên và do đó thúc đẩy sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các ngành dịch vụ phát triển hơn. Đồng thời đầu tư tăng lên làm cho năng lực sản xuất công nghiệp gia tăng, nhịp độ tăng trưởng tăng lên. Sản xuất phát triển tạo điều kiện thúc đẩy nhu cầu tăng lên. Nếu không tăng đầu tư mà chỉ dựa vào những yếu tố khác như lao động, tiềm năng tự nhiên, v.v… thì không thể có tăng trưởng kinh tế ổn định, thậm chí không thể duy trì được sản xuất trong thời gian dài. Đầu tư phát triển công nghiệp còn là tác động của vốn, tài chính vào cơ sở hạ tầng công nghiệp, vào các công trình phục vụ sản xuất công nghiệp, vào việc đào tạo tay nghề, kỹ thuật cho người lao động trong công nghiệp (những yếu tố không trực tiếp tham gia vào sản xuất) để sau một thời gian nó sẽ có tác động đến sản xuất công nghiệp. Quá trình đó rất cần thiết cho việc duy trì sự phát triển một cách ổn định lâu dài của ngành công nghiệp, của nền kinh tế. Ngược lại tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao, làm cho khả năng tích lũy và tiết kiệm sẽ tăng lên, mang lại nội lực của nền kinh tế lớn và từ đó huy động vốn đầu tư cũng tăng lên.
Đối với các nước đang phát triển, để có được tốc độ tăng trưởng khá thì đầu tư phát triển mà đặc biệt là đầu tư phát triển công nghiệp đóng vai trò như cú huých tạo đà cho sự cất cánh.
Đầu tư phát triển công nghiệp tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, yếu tố quyết định là vốn đầu tư, vấn đề sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển và lao động lành nghề. Trên cơ sở tập trung vốn đầu tư cho những ngành ưu tiên, trọng điểm, cùng với các giải pháp hỗ trợ khác sẽ từng bước tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Thực chất của vấn đề này là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Kinh nghiệm thực tế của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho việc phát triển kinh tế. Chính sách đầu tư bao gồm cả việc tạo nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Tỷ trọng huy động nguồn vốn vào các ngành khác nhau sẽ mang lại những hiệu quả khác nhau. Vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành (cơ cấu đầu tư) có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành và sự chuyển dịch cơ cấu các ngành trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế chung. Cơ cấu đầu tư khác nhau mang lại hiệu quả khác nhau, bởi lẽ, tỷ suất vốn đầu tư (hệ số ICOR) của các ngành là khác nhau, phụ thuộc vào đặc trưng của mỗi ngành.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính trị… của vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Trong phạm vi một địa phương (tỉnh, thành phố), những quận, huyện có lợi thế bố trí cơ sở sản xuất công nghiệp thì chính quyền địa phương cần quy hoạch, đầu tư phát triển khu công nghiệp, khu công nghệ cao nhằm thu hút đầu tư, tạo điều kiện đầu tư phát triển công nghiệp cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội và môi trường.
Từ đó có thể thấy, giữa đầu tư và tăng trưởng cũng như chuyển dịch cơ cấu các ngành có mối quan hệ khăng khít với nhau. Việc đầu tư vốn vào ngành công nghiệp một cách hợp lý sẽ mang lại hiệu quả cao, có tác động trực tiếp đến nhịp tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá như mong muốn. Ngược lại, tăng trưởng kinh tế cao cũng như dịch chuyển cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo ra nguồn đầu tư dồi dào, định hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp có hiệu quả hơn.
2.2. Nội dung của hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp
Cùng với cách hiểu như đã nêu trên thì nội dung đầu tư phát triển công nghiệp bao gồm các hoạt động sau:
2.2.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xây lắp, mua sắm máy móc trong ngành công nghiệp
Đây là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định của ngành công nghiệp. Đối với ngành công nghiệp, để hoạt động của các đơn vị có thể diễn ra bình thường đều cần phải xây dựng nhà xưởng, kho tàng, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị… Đây là hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp.
2.2.2. Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ (R&D)
Nghiên cứu và phát triển bao gồm việc đầu tư, tiến hành mua bán các nghiên cứu, công nghệ mới phục vụ cho quá trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đầu tư cho nghiên cứu và phát triển cũng nhằm khám phá những tri thức mới về các sản phẩm, quá trình, và dịch vụ, sau đó áp dụng những tri thức đó để tạo ra sản phẩm, quá trình và dịch vụ mới, có tính cải tiến để đáp ứng nhu cầu của khách hàng hoặc của thị trường tốt hơn.
2.2.3. Đầu tư cho phát triển nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và các doanh nghiệp, chỉ có nguồn nhân lực cao mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi một ngành thông thường chính là hoạt động đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động, đầu tư về mặt thể chất cho người lao động và đầu tư cho cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của người lao động. Trong ngành công nghiệp địa phương hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực luôn có sự kết hợp giữa kinh phí từ ngân sách và của chính bản thân các doanh nghiệp công nghiệp.
Đầu tư cho các hoạt động khác như đầu tư phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp, đầu tư cho công tác khuyến công, đầu tư cho hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng cáo, xây dựng thương hiệu…
Đối với hoạt động đầu tư phát triển công nghiệp của một nước thì hoạt động đầu tư phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp cũng có vai trò quan trọng vì nó sẽ giúp cho các nước duy trì và phát triển những ngành nghề truyền thống. Đó là các hoạt động hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, ưu tiên bố trí các dự án đầu tư ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống được vào các cụm công nghiệp, các điểm công nghiệp nhỏ và các điểm công nghiệp làng nghề.
Đầu tư cho hoạt động khuyến công và xúc tiến đầu tư là việc dành kinh phí để dành cho các hoạt động khuyến khích, hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp và quảng bá tiềm năng thế mạnh để phát triển công nghiệp.
2.2.4. Đầu tư phát triển công nghiệp theo nhóm ngành
Đầu tư phát triển công nghiệp theo nhóm ngành công nghiệp là hoạt động đầu tư phát triển của các nhóm ngành: công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước.
Đầu tư cho công nghiệp khai thác là hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới dây chuyền, công nghệ… cho các ngành công nghiệp khai thác như khai thác than, khai thác vàng, khai thác quặng kim loại, khai thác đá và các mơ khác…
Đầu tư công nghiệp chế biến là hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới dây chuyền, công nghệ… cho các ngành công nghiệp chế biến gồm: sản xuất thực phẩm và đồ uống, sản xuất thuốc lá, bánh kẹo, sản xuất sản phẩm dệt, sản xuất trang phục, sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy, sản xuất hóa chất, sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại, sản xuất máy móc thiết bị, sản xuất thiết bị văn phòng, sản xuất thiết bị điện…
Đầu tư cho công nghệ sản xuất và phân phối điện và nước là hoạt động đầu tư mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, đổi mới dây chuyền, công nghệ…cho các ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện và nước như: công nghiệp sản xuất và phân phối điện, công nghiệp sản xuất và phân phối nước.
Để lại một bình luận