Trong bài viết dưới đây, tailuanvan.com xin chia sẻ đến bạn những lý luận về hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam trong các ngân hàng thương mại.
1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
Khái niệm về BHTG đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới. Xuất phát từ lý do hoạt động tài chính ngân hàng luôn gắn liền với những nhạy cảm và rủi ro tiềm ẩn. Chính vì vậy mỗi quốc gia đặt ra yêu cầu cần có tổ chức đứng ra nắm giữ vai trò bảo vệ người gửi tiền trong trường hợp ngân hàng xảy ra đổ vỡ để ổn định tình hình an ninh xã hội.
Trên thực tế, khi các quốc gia chưa hình thành hệ thống BHTG thì cũng đã sử dụng các công cụ bảo hiểm ngầm có nghĩa là mặc dù không cam kết công khai trước công chúng về việc bảo vệ tiền gửi cho họ trong trường hợp ngân hàng đổ bể nhưng nếu điều đó xảy ra thì Chính phủ phải đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Tuy nhiên, công cụ bảo vệ ngầm đó chưa thực sự đem lại lợi ích quốc gia cũng như niềm tin với công chúng vì vậy hệ thống bảo hiểm công khai cũng như những khái niệm rõ ràng hơn về BHTG đã ra đời.
Mô hình BHTG đầu tiên xuất hiện vào năm 1829 tại Hoa Kỳ dưới hình thức công khai nhằm phòng ngừa sự đổ vỡ mang tính chất định kỳ của ngân hàng vào thế kỷ XIX. Tuy nhiên, đến năm 1933 khi tình hình tài chính ở Hoa Kỳ bị rối loạn, nền kinh tế bị lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, hàng loạt các ngân hàng bị phá sản, cơ quan BHTG công khai của Nhà nước ở Hoa Kỳ lần đầu tiên mới ra đời (FDIC), nhằm củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ người gửi tiền. Từ đó đến nay, các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt cho ra đời các tổ chức BHTG nhằm bảo vệ người gửi tiền trước nguy cơ phá sản của các tổ chức tài chính, đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế các cuộc khủng hoảng tài chính [34].
Ở các quốc gia khác trên thế giới, khái niệm BHTG ra đời cùng Luật Bảo hiểm tiền gửi. Song song với hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hoạt động BHTG của các nhà nước, hoạt động nghiên cứu về BHTG và pháp luật BHTG cũng trở nên sôi động. Đặc biệt, từ giai đoạn Hiệp hội BHTG quốc tế được thành lập vào năm 2002, những nghiên cứu khoa học về lĩnh vực này đã được chia sẻ rộng rãi giữa các quốc gia khác nhau.
Một số nước và vùng lãnh thổ có mô tả về thuật ngữ BHTG trong Luật Bảo hiểm tiền gửi như: Luật Bảo hiểm tiền gửi của Canada hiện hành quy định: “BHTG là bảo hiểm cho những tổn thất một phần hoặc toàn bộ tiền gửi”. [72] Còn theo quy định của Luật Bảo hiểm tiền gửi của Đài Loan (Trung Quốc) hiện hành thì BHTG là một loại hình bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là các loại tiền gửi trên lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) [77]. Luật Bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc năm 2005 quy định về địa vị pháp lý của tổ chức thực hiện hoạt động BHTG (KDIC) trong việc bảo vệ các khoản tiền gửi tại các tổ chức tham gia BHTG tại Hàn Quốc [73] mà không có những mô tả cụ thể về khái niệm BHTG. Tại Việt Nam, Khoản 1, Điều 4 Luật Bảo hiểm tiền gửi năm 2012 quy định cụ thể: “Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản”.
BHTG cũng là đề tài được nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong lĩnh vực tài chính, kinh tế cũng như pháp luật quan tâm khai thác. Trong các công trình nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực kinh tế về BHTG, các nhà nghiên cứu đều đã đề cập khái niệm BHTG. Theo như quan điểm của tác giả Đào Văn Tuấn thì “BHTG là việc Nhà nước đưa ra lời bảo đảm công khai nhằm bảo vệ tiền gửi bằng các quy định của pháp luật đối với người có tiền gửi tại tổ chức được phép nhận tiền gửi” [60, tr. 7]. Hoặc theo quan điểm về BHTG của tác giả Nguyễn Thị Hiển thì “đây là một cam kết công khai của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG về việc tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi bao gồm phần gốc và lãi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền” [20, tr. 6]. Còn theo tác giả Lê Thị Thu Thủy, trong công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về BHTG của mình, tác giả định nghĩa: “BHTG là loại hình bảo hiểm, theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán” [56, tr. 36].
Xem thêm: Dịch vụ cung cấp tài liệu làm luận văn theo yêu cầu |
Dựa trên các khái niệm về BHTG được quy định trong pháp luật về BHTG tại các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam, các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về BHTG, có thể hiểu BHTG là cam kết của tổ chức BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG, theo đó, tổ chức BHTG sẽ trả tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia BHTG gặp rủi ro đến mức mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Cam kết này thể hiện mối quan hệ giữa ba bên, đó là tổ chức BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền.
Từ những phân tích trên, BHTG có thể hiểu như sau: “Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình hoạt động bảo hiểm, theo đó, tổ chức BHTG thực hiện cam kết chi trả một phần hoặc toàn bộ tiền gốc và tiền lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia BHTG bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước”.
Thông qua khái niệm tổng quát nêu trên, BHTG xác định là một chuỗi các hoạt động nhằm thực thi sự bảo đảm về mặt pháp lý cho các khoản tiền gửi (bao gồm cả gốc và lãi) của người gửi tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi đã tham gia BHTG. Bởi nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro đối với những chủ thể khác nhau trong hoạt động ngân hàng giữ vai trò cốt yếu trong nền kinh tế cũng có nguy cơ đối mặt với nhiều loại rủi ro khác nhau. Trong đó, mỗi loại rủi ro đều hàm chứa những đặc trưng riêng biệt. Rủi ro trong lĩnh vực ngân hàng là tiền đề của BHTG.
Khái niệm BHTG cho thấy, quan hệ xã hội trong lĩnh vực BHTG được xác lập giữa các bên trong phạm vi hẹp, mối quan hệ này bao gồm: Chủ thể thực hiện hoạt động BHTG, chủ thể tham gia BHTG và chủ thể thụ hưởng từ hoạt động BHTG. Chủ thể thực hiện các hoạt động nghiệp vụ nhằm thực hiện cam kết trả các khoản tiền gửi cho người gửi tiền thường là tổ chức BHTG. Đây là một loại hình tổ chức tài chính đặc thù và có những quyền hạn nhất định trong quản lý rủi ro của các tổ chức tham gia BHTG. Còn chủ thể tham gia BHTG là tổ chức tham gia nhận tiền gửi của cá nhân, tổ chức trong xã hội. Chủ thể thụ hưởng từ BHTG chính là cá nhân, tổ chức gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG.
Về bản chất, hoạt động BHTG mang đầy đủ bản chất của hoạt động bảo hiểm nói chung, là công cụ phân tán rủi ro thông qua cơ chế hoạt động lấy nhiều bù ít. Rủi ro trong hoạt động của tổ chức BHTG là tiền đề của hoạt động BHTG. Cụ thể đó là rủi ro của tổ chức tham gia BHTG đến mức khiến tổ chức này không thể thanh toán được khoản tiền gửi cho người gửi tiền. Nếu xét về đối tượng chịu thiệt hại do rủi ro này mang lại, đó là thiệt hại về tài sản đối với người gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Nhưng với đặc thù của hoạt động ngân hàng nên thiệt hại này có thể gây tác động rất xấu cho hoạt động bình thường của cả hệ thống tài chính – ngân hàng nói chung. Đó là khi người gửi tiền rút tiền về và hiện tượng đó lan truyền trở thành đồng loạt trên toàn hệ thống từ đó dẫn tới nguy cơ mất khả năng thanh toán của dây chuyền các tổ chức tín dụng. Do đó, hoạt động BHTG không chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích về kinh tế của người gửi tiền mà còn là công cụ của Nhà nước gây dựng, duy trì sự tin cậy, tâm lý an tâm của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng, góp phần đảm bảo an toàn và ổn định của hệ thống tài chính, ngân hàng của một quốc gia.
2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
Một là, chủ thể thực hiện bảo hiểm tiền gửi phải là tổ chức bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động BHTG mang tính đặc thù là chỉ hình thành trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách công của Nhà nước. Cho nên, hoạt động BHTG không hẳn là biện pháp bảo đảm an toàn trong lĩnh vực ngân hàng một cách thuần túy. Hoạt động BHTG cũng không mang bản chất pháp lý của hoạt động bảo hiểm thương mại. Chính vì vậy, BHTG thường không được các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại thực hiện. Hoạt động đặc thù này được tiến hành bởi một tổ chức tài chính đặc thù dưới tên gọi là công ty BHTG hoặc cơ quan BHTG.
Tổ chức BHTG có thể mang mục tiêu lợi nhuận (hoạt động theo Luật Doanh nghiệp) hoặc không vì mục tiêu lợi nhuận (tổ chức tài chính của Nhà nước) [64, tr. 99]. Tùy thuộc vào mô hình hoạt động của BHTG mà phạm vi, chức năng, quyền hạn của tổ chức BHTG cũng được pháp luật quy định khác nhau. Tuy nhiên, chức năng chủ yếu của tổ chức BHTG theo pháp luật của tất cả các nước thành viên thuộc Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) là thực hiện nghiệp vụ BHTG. Cụ thể là bảo vệ tiền gửi thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức tại các tổ chức tham gia BHTG. Để thực hiện chức năng này, các tổ chức BHTG có những công cụ tài chính nhất định như Quỹ BHTG, công cụ pháp lý như quyền hạn, trách nhiệm trong xác lập, chấm dứt quan hệ BHTG với tổ chức tham gia BHTG… Như vậy, địa vị pháp lý của chủ thể thực hiện hoạt động BHTG được quy định trong pháp luật là công cụ đặc biệt của Nhà nước để thực hiện các mục tiêu chính sách công của mình. Quyền hạn, trách nhiệm được pháp luật quy định là những phương tiện pháp lý để tổ chức tài chính đặc thù thực hiện có hiệu quả các hoạt động BHTG.
Hai là, đối tượng được bảo hiểm là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi của chủ thể nhận tiền gửi đối với người gửi tiền
Thực tiễn trong hoạt động tài chính ngân hàng, hoạt động vay và cho vay của các tổ chức tín dụng tiềm ẩn vô số nguy cơ rủi ro. Do đó, đặt ra vấn đề là cần có sự đảm bảo về mặt pháp lý đối với những khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng ngân hàng. Pháp luật về hoạt động BHTG của các quốc gia và Việt Nam đều quy định các vấn đề liên quan đến đối tượng BHTG như loại tiền gửi được bảo hiểm, loại tiền gửi không thuộc đối tượng được bảo hiểm, mức tiền gửi tối đa được bảo hiểm, chủ sở hữu của các khoản tiền gửi được bảo hiểm và không được bảo hiểm… Việc loại trừ những khoản tiền gửi không được bảo hiểm cũng như qui định mức bảo hiểm tiền gửi tối đa nhằm giảm thiểu rủi ro cho chính tổ chức BHTG và nâng cao trách nhiệm quản lý hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia BHTG. Tuy nhiên, những quy định cụ thể về đối tượng được BHTG có thể khác nhau, xuất phát từ mục tiêu chủ yếu trong chính sách công và các điều kiện về kinh tế, xã hội của mỗi nước.
Ba là, người thụ hưởng từ hoạt động bảo hiểm tiền gửi là người gửi tiền
Người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng ngân hàng có thể là cá nhân, tổ chức. Mục đích gửi tiền của các chủ thể cũng rất đa dạng như để thực hiện nghĩa vụ thanh toán, tiết kiệm, đầu tư… Như đã phân tích, thì các quốc gia dựa vào nhiều tiêu chí để xác định chủ thể tham gia BHTG, trong đó các tiêu chí được đề cập đến bao gồm loại tiền gửi, chủ thể gửi tiền, mục đích gửi tiền của chủ thể. Do đó, đối tượng được BHTG có thể khác nhau theo quy định của pháp luật từng nước.
Pháp luật về hoạt động BHTG của hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện việc bảo hiểm cho tiền gửi của cá nhân. Đây là quy định xuất phát từ một trong các mục tiêu cốt lõi của BHTG là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền nhỏ khi tổ chức tín dụng nhận các khoản tiền của họ mất khả năng thanh toán, tránh các thiệt hại về tài sản, đảm bảo đời sống cơ bản cho họ khi tổ chức tham gia BHTG bị mất khả năng chi trả. Từ đó, tránh hiện tượng người gửi tiền đồng loạt rút tiền về do mất niềm tin vào hệ thống ngân hàng, bảo đảm cho hoạt động ngân hàng diễn ra bình thường. Do vậy, chủ thể tham gia BHTG được hưởng những lợi ích nhất định từ hoạt động BHTG nhưng họ không phải là chủ thể được chi trả BHTG mặc dù họ là chủ thể đóng phí BHTG. Chủ thể tham gia BHTG chính là các ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác có hoạt động ngân hàng trong đó có cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đa dạng về quy mô vốn, hình thức sở hữu.
Các tổ chức tín dụng, ngân hàng có quyền bình đẳng về địa vị pháp lý trong hoạt động tín dụng, đều thực hiện huy động tiền gửi của cá nhân, tổ chức để thực hiện các hoạt động đầu tư, tìm kiếm lợi nhuận. Để thực hiện một trong mục tiêu của BHTG là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi, pháp luật quy định các tổ chức nhận tiền gửi là tổ chức tín dụng, ngân hàng tham gia BHTG. Tùy theo quy định pháp luật của một quốc gia về hoạt động BHTG cũng như vào từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội khác nhau, mà sự tham gia BHTG của các tổ chức nhận tiền gửi có thể bằng cách tự nguyện hoặc bắt buộc nhằm bảo vệ tiền gửi của người gửi tiền tại các tổ chức này.
Bốn là, phí bảo hiểm tiền gửi là khoản phí do pháp luật quy định
Các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thoả thuận về mức phí như các loại hình bảo hiểm khác. Các hệ thống BHTG trên thế giới thường đứng trước sự lựa chọn hai loại phí bảo hiểm: phí đồng hạng hoặc phí căn cứ vào mức độ rủi ro của từng ngân hàng. Các nước khi mới thành lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi thường áp dụng mức phí bảo hiểm đồng hạng để dễ thực hiện và quản lí. Tuy nhiên, chế độ tính phí này không đề cập tới mức độ rủi ro của từng ngân hàng đối với hệ thống tổ chức tín dụng nên không đảm bảo tính công bằng, dễ gây những phản ứng từ phía các ngân hàng lớn, có qui mô và uy tín lớn trên thị trường. Do vậy, các nước đã dần chuyển đổi sang chế độ tính phí theo mức độ rủi ro.
Theo cách tính phí này, cơ sở để xác định tỉ lệ phí BHTG là kết quả phân loại tổ chức tham gia BHTG. Ngân hàng nào hoạt động với mức độ rủi ro lớn sẽ phải chịu tỉ lệ phí BHTG cao, ngược lại ngân hàng nào hoạt động tốt, rủi ro thấp sẽ được áp dụng mức tính phí thấp. Việc tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro trong hoạt động của tổ chức tham gia BHTG sẽ tạo ra cơ chế đối xử bình đẳng giữa các tổ chức này và thể hiện xu thế thị trường trong hoạt động BHTG. Nếu áp dụng mức phí đồng hạng, các ngân hàng dễ hoạt động bất cẩn, huy động vốn với lãi suất cao, hoạt động đầu tư với độ rủi ro lớn và luôn an tâm là các khoản tiền gửi của khách hàng vẫn được bảo hiểm. Trong trường hợp này hệ thống ngân hàng dễ bị lâm vào tình trạng khủng hoảng do các ngân hàng bị “yếu đi”, đổ bể, mất uy tín trên thương trường kinh doanh tín dụng và tổ chức chi trả bảo hiểm cũng phải chịu hậu quả nặng nề liên quan đến các khoản chi phí bảo hiểm cho người gửi tiền.
Hoa Kỳ là nước tiên phong triển khai cách tính phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro vào năm 1993, mặc dù trong một thời gian dài kể từ khi tổ chức BHTG công khai của Nhà nước – FDIC được thành lập năm 1933, Hoa Kỳ đã áp dụng cơ chế tính phí đồng hạng. Tuy nhiên, việc tính phí dựa vào mức độ rủi ro của từng ngân hàng cũng đòi hỏi phải có nguồn lực để quản lý hệ thống một cách thích hợp và xác định cụ thể những phương pháp, những tiêu chí – là cơ sở tin cậy cho việc phân loại rủi ro của ngân hàng. Nó được xác định bởi mục tiêu của việc áp dụng chế độ tính phí này là khuyến khích các ngân hàng không tiến hành quá nhiều những hoạt động rủi ro và tạo sự công bằng trong việc tính phí, đóng góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Các nước thường dựa vào các tiêu chí định tính và định lượng để tính mức độ rủi ro, tuy nhiên, theo xu hướng giảm dần các tiêu chí định tính, tăng các tiêu chí định lượng.
3. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi
Mục đích của hoạt động BHTG là nhằm thực hiện các chính sách công của Nhà nước. Trong thực tế, mục đích cụ thể của mỗi hệ thống bảo hiểm tiền gửi có khác nhau nhưng tựu chung đều nhằm đạt được mục tiêu sau:
Bảo vệ số đông người gửi tiền, đối tượng có tiền gửi ít hạn chế trong tiếp cận thông tin về quản trị, điều hành và tình hình hoạt động của các tổ chức huy động tiền gửi;
Góp phần đảm bảo cho hệ thống tài chính quốc gia ổn định và tạo điều kiện cho các giao dịch tài chính có hiệu quả hơn bằng cách phòng, tránh đổ vỡ ngân hàng;
Góp phần xây dựng một thị trường có tính cạnh tranh và bình đẳng cho các tổ chức tài chính có quy mô và trình độ phát triển khác nhau;
Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của người gửi tiền, tổ chức tài chính, Chính phủ và giảm thiểu gánh nặng tài chính cho người gửi tiền trong trường hợp có tổ chức tín dụng đổ bể.
Ngoài ra, còn nhóm các mục tiêu khác như phân bổ lại chi phí giải quyết tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ, góp phần tạo động lực cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế…[64, tr. 16]. Trong đó, mục đích chủ yếu của hoạt động BHTG là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền. Đó thường là các chủ thể có thu nhập thấp, ít có cơ hội tiếp cận thông tin về thị trường tài chính. Các khoản tiền gửi của các chủ thể này thường chủ yếu để tích lũy, tiết kiệm. Thông thường thì những khoản tiền gửi của các tổ chức không được thực hiện bảo hiểm bởi các khoản tiền gửi tài khoản của các chủ thể này thường được sử dụng để thực hiện các giao dịch thanh toán có liên quan đến hoạt động cụ thể của tổ chức đó. Do vậy, việc rút các khoản tiền trên để thực hiện các hoạt động của tổ chức, cơ quan thường dựa trên kế hoạch cụ thể của các chủ sở hữu và tổ chức nhận tiền gửi thường ở vào thế bị động. Trên thực tế, rủi ro ít có nguy cơ xảy ra đối với các khoản tiền này.
Như vậy, hoạt động BHTG được coi như một phương thức chuyển giao rủi ro đặc biệt. Theo đó, tổ chức thực hiện nghiệp vụ BHTG bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản tiền đó. Thông qua BHTG, người gửi tiền được thông tin minh bạch, sử dụng các dịch vụ tư vấn của BHTG để hạn chế những thiệt hại trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG phá sản.
4. Vai trò của bảo hiểm tiền gửi
BHTG thực hiện nhằm mục đích bảo vệ người gửi tiền, trong đó đặc biệt chú trọng tới người gửi tiền “nhỏ” thường là những người bị hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và khả năng phân tích thông tin của tổ chức nhận tiền gửi. Thông thường, BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại. Đây là hoạt động không nhằm mục tiêu sinh lời mà thực hiện những mục tiêu xã hội, vì lợi ích của cộng đồng. Điều này phân biệt với các loại hình bảo hiểm khác hoạt động theo luật kinh doanh bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm tài sản…
Thứ nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại
Như đã đề cập, dù mục tiêu cụ thể chính sách công của mỗi nhà nước là khác nhau nhưng hoạt động BHTG ở các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam có vai trò cơ bản là bảo vệ người gửi tiền. Tiền gửi là “của cải” chủ yếu, thuộc sở hữu của số đông dân cư, là lợi ích của những người gửi tiền nhỏ, tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Tại các quốc gia phát triển, người dân có thói quen sử dụng những dịch vụ do các tổ chức tín dụng, ngân hàng cung cấp trong những giao dịch dân sự hàng ngày nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của họ. Đó là những giao dịch thực hiện thanh toán qua ngân hàng mà không cần sử dụng tiền mặt. Ở góc độ tài chính, thói quen thanh toán qua ngân hàng của người sử dụng có thể đảm bảo cho ngân hàng có số vốn tương đối ổn định để hoạt động. Có rất nhiều nhóm đối tượng người gửi tiền khác nhau với mức gửi tiền từ ít đến nhiều gắn liền với mục đích sử dụng dịch vụ riêng biệt. Trong đó, nhóm người gửi tiền là cá nhân với tài khoản tiền gửi có giá trị khiêm tốn thường sẽ ít có cơ hội, điều kiện nắm bắt được thực trạng hoạt động tài chính, ngân hàng. Họ được coi là người gửi tiền “nhỏ”. Nhóm người gửi tiền này có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận và phân tích thông tin về hoạt động của tổ chức huy động tiền gửi. Đời sống của những người gửi tiền thuộc tầng lớp dân cư có thu nhập thấp thường bị tác động nhiều hơn các khách hàng gửi tiền khác khi có đổ bể ngân hàng xảy ra. Mặc dù, tiền gửi tại ngân hàng của những người có thu nhập thấp thường ít hơn số tiền gửi của các đối tượng khác nhưng có thể tiền lãi trên số tiền gửi ít ỏi đó lại là nguồn sống hàng ngày của người dân nghèo. Vì lo lắng sẽ bị ảnh hưởng khi có đổ bể ngân hàng và vì bị hạn chế về khả năng có được thông tin chính xác về hoạt động của các tổ chức tín dụng nên tầng lớp người gửi tiền có thu nhập thấp thường hay có các “ứng xử quá đỗi” khi có thông tin đồn đại thất thiệt về ngân hàng.
Tuy nhiên, nếu hoạt động BHTG có vai trò chủ yếu là bảo vệ người gửi tiền nhỏ, thì với hạn mức chi trả có giới hạn từ khi hoạt động BHTG ra đời có thể khiến người gửi tiền với giá trị lớn thực hiện rút tiền hàng loạt khi nghi ngờ về biến động trong hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi. Do vậy, sự hài hòa trong vai trò bảo vệ người gửi tiền và ổn định tài chính quốc gia sẽ tạo động lực cho người gửi tiền nhỏ có được những hiểu biết tình hình tài chính cần thiết cũng như hạn chế được những rủi ro quá mức của các tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Thứ hai, góp phần duy trì và nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại
Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại có thể thuộc sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân. Giá trị tiền gửi có thể mang giá trị lớn hoặc nhỏ tùy vào mục đích gửi tiền của người gửi. Trường hợp các tổ chức nhận tiền gặp biến cố và lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán có thể gây ra những thiệt hại nhất định cho người gửi tiền. Nếu tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại gặp phải những khó khăn hoặc bị phát tán những thông tin thất thiệt về hoạt động của mình sẽ tác động tới tâm lý của người gửi tiền và có xu hướng khiến họ thực hiện việc rút tiền ồ ạt về. Nếu không xử lý kịp thời thì hiện tượng đó có thể gây hiệu ứng lan rộng sang các tổ chức tín dụng khác và gây ảnh hưởng tới toàn hệ thống tài chính trong nước. Do đó, BHTG đạt hiệu quả sẽ giới hạn được những hậu quả của hiện tượng người gửi tiền rút đồng loạt tiền gửi về. Niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tài chính, ngân hàng của quốc gia có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với hoạt động cũng như khả năng phát triển của các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Thời điểm tiến hành gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền thường có thói quen tìm hiểu về hệ thống ngân hàng đó đã tham gia BHTG hay chưa, hạn mức chi trả tiền bảo hiểm bao nhiêu, thủ tục có tiện dụng hay không… Mặc dù, số lượng người gửi tiền hiểu biết sâu sắc về hoạt động tài chính, ngân hàng cũng như chính sách pháp luật về BHTG là không nhiều, nhưng đây cũng chính là thể hiện rõ nét về sự cẩn trọng của người gửi tiền để đi đến quyết định gửi tiền tại tổ chức tín dụng ngân hàng thay vì chọn hình thức đầu tư khác. Điều quan trọng để thiết lập niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống tổ chức tín dụng ngân hàng là mức chi trả cho BHTG khi tổ chức tín dụng mất khả năng chi trả. Ở vấn đề này, một số nước quy định chi trả toàn bộ cho những nhóm người gửi tiền nhất định, quy định hạn mức chi trả cao khi xảy ra khủng hoảng tài chính.
(Ví dụ: Hàn Quốc quy định hạn mức chi trả là 200.000 USD; một số nước châu Âu thì hạn mức nằm ở mức 50.000 Euro…). Nếu quy định hạn mức chi trả quá thấp, người gửi tiền sẽ không thể yên tâm và sẵn sàng thực hiện những kế sách đối phó với những tình huống xấu nhất khi tổ chức tín dụng ngân hàng rơi vào những nguy cơ tài chính nhất định. Việc BHTG bảo vệ cho tiền gửi cá nhân tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi với một hạn mức hợp lý sẽ tạo tâm lý yên tâm, góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn, ngăn chặn rút tiền đột biến đe dọa đến an toàn thanh khoản của các ngân hàng.
Thứ ba, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng, góp phần duy trì sự an toàn, ổn định của hệ thống tài chính quốc gia.
Hệ thống ngân hàng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất; là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường thông qua hoạt động tín dụng . Vì vậy, khi hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, an toàn và ổn định, thì các nguồn lực tài chính sẽ được luân chuyển nhanh chóng và sử dụng có hiệu quả. Trong trường hợp ngược lại, khi một hay một số ngân hàng vấp phải vấn đề có thể gây ảnh hưởng đáng kể đến hệ thống ngân hàng cũng như thị trường tài chính. Tức rủi ro trong hệ thống ngân hàng là rủi ro mang tính hệ thống bởi các ngân hàng thương mại có mối liên hệ với nhau. Để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro trong hoạt động tài chính ngân hàng, ở các nước trên thế giới, chủ thể thực hiện hoạt động BHTG là một trong các chủ thể tham gia giám sát hoạt động tài chính, ngân hàng. Các chủ thể trong hệ thống giám sát tài chính, ngân hàng thực hiện theo những quy tắc, chỉ tiêu giám sát hiện đại, trong đó có hoạt động giám sát từ xa [62]. Thông qua các nghiệp vụ về giám sát, kiểm tra hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG, BHTG phát hiện những dấu hiệu rủi ro, biểu hiện yếu kém, vi phạm các quy định về bảo hiểm tiền gửi, an toàn trong hoạt động ngân hàng, từ đó, đề xuất, kiến nghị phương án giải quyết phù hợp hoặc báo cáo NHNN để có những biện pháp xử lý.
Theo quan điểm của TS. Lê Xuân Nghĩa về vai trò của BHTG thì: “BHTG có vai trò rất đặc thù, là người bảo vệ uy tín của các định chế tài chính trước người gửi tiền, đồng thời, tạo dựng lòng tin chung của thị trường tài chính đối với khu vực ngân hàng. BHTG ở Việt Nam đóng vai trò rất lớn đối với hệ thống tài chính ngân hàng. Muốn phát huy được vai trò của mình, trước hết tổ chức BHTG ở nước ta cần phải có tiềm lực tài chính đủ lớn để có thể đứng ra gánh vác được những khoản cần thiết phải xử lý. Ví dụ: Khi rủi ro có thể xảy ra, hoặc khi một ngân hàng nào đó bị phá sản, sáp nhập… thì tổ chức BHTG phải đủ khả năng đứng ra xử lý. Thứ hai, nguồn nhân lực cũng phải đủ mạnh để vừa làm công tác giám sát, vừa xử lý những hậu quả, do đó, cần xây dựng một bộ máy hữu hiệu mới có thể làm được. Thứ ba, vấn đề có tính cốt lõi, đó là cần tạo ra một cơ chế hợp tác chặt chẽ giữa BHTG Việt Nam, Ngân hàng trung ương và các cơ quan giám sát khác. Tức cần tăng cường chia sẻ thông tin, chia sẻ trách nhiệm, hợp tác với nhau để đảm bảo cho công tác giám sát được nhìn thấy từ nhiều góc độ, từ nhiều khía cạnh và thấy được các rủi ro sớm hơn, rõ hơn”. [34] Cho nên, thông qua các hoạt động BHTG, bằng giám sát từ xa, dự báo sớm, hoặc can thiệp kịp thời đối với tổ chức tín dụng, ngân hàng đang gặp khó khăn có thể giúp ngăn chặn hoặc khắc phục tình trạng đổ vỡ ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định đối với hoạt động tài chính ngân hàng nói chung.
Thứ tư, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại, tạo điều kiện phát triển trong lĩnh vực tài chính.
Cạnh tranh là một hiện tượng gắn liền với nền kinh tế thị trường, chỉ xuất hiện trong điều kiện nền kinh tế đặc thù này. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh là môi trường tạo động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển và tăng năng suất lao động, hiệu quả của các tổ chức, là nhân tố quan trọng giúp lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế, quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của mỗi tổ chức kinh doanh. Vì vậy, các tổ chức đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược phù hợp để chiến thắng trong môi trường cạnh tranh. Kinh doanh tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy cảm, chịu tác động bởi nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền thống văn hoá… mỗi một yếu tố này nếu có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường kinh doanh chung. Chính vì vậy, để thu hút dòng tiền từ người gửi tiền, các tổ chức tín dụng, ngân hàng thường đa dạng hóa, hiện đại hóa các dịch vụ tín dụng do mình cung cấp. Tùy thuộc vào tổ chức tín dụng, ngân hàng có quy mô khác nhau mà cũng có những chênh lệch về khả năng thu hút vốn từ khách hàng.
Khi hoạt động BHTG chưa hình thành, người gửi tiền thường có xu hướng chọn các tổ chức tín dụng, ngân hàng có uy tín, được biết đến rộng rãi, có nhiều năm kinh nghiệm trong thương trường kinh doanh tiền tệ. Những tổ chức này được người gửi tiền mặc định là ít có nguy cơ đổ vỡ. Quan niệm này được xây dựng và củng cố bởi nhiều nguyên nhân khác nhau như: Danh mục đầu tư đa dạng; khả năng tổ chức hoạt động kinh doanh có hiệu quả; lịch sử phát triển lâu đời cho thấy dấu hiệu kinh doanh ổn định; uy tín được khẳng định trong xã hội… Cho nên, với sự hiện diện của BHTG sẽ tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng ngân hàng quy mô nhỏ có cơ hội tiếp cận được với các nhóm khách hàng gửi tiền khác nhau. Đối với những tổ chức nhận tiền gửi mới thành lập, vai trò này của BHTG càng có ý nghĩa lớn hơn trong việc bảo hộ khả năng kinh doanh ổn định của các tổ chức này. Các tổ chức tín dụng nhỏ hay tổ chức mới đi vào hoạt động này có điều kiện thuận lợi hơn trong việc triển khai các hoạt động kinh doanh tín dụng của mình, rút ngắn sự chênh lệch về khả năng cạnh tranh với các tổ chức nhận tiền gửi quy mô lớn. Chính điều đó tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng, ngân hàng. Bên cạnh đó, BHTG cũng tham gia thúc đẩy kỷ luật thị trường. Với các khung pháp lý, kỷ luật thị trường sẽ khiến các thành viên tham gia thị trường dùng sự hiểu biết của mình để theo dõi hệ thống tài chính – ngân hàng, giúp hệ thống tổ chức tài chính hoạt động an toàn, nhà đầu tư hạn chế tối đa rủi ro thua lỗ.
Thứ năm, góp phần tái cấu trúc ngân hàng
Nền kinh tế thị trường đặt các tổ chức tín dụng ngân hàng trong những cuộc cạnh tranh thị phần khốc liệt. Để đứng vững và phát triển các ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của bản thân. Điều tất yếu đến với những ngân hàng yếu kém chính là quá trình đào thải. Tuy nhiên, sự đổ vỡ của một hay một số tổ chức tín dụng ngân hàng có thể gây ảnh hưởng xấu đến toàn hệ thống ngân hàng quốc gia. Do đó, cơ chế tiếp nhận và xử lý các tổ chức tín dụng ngân hàng đang ở tình trạng đổ vỡ thông qua hoạt động nghiệp vụ BHTG sẽ góp phần tái cấu trúc ngân hàng và tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng là thực hiện các biện pháp nhằm khắc phục các khiếm khuyết của hệ thống tổ chức tín dụng, ngân hàng nhằm mục đích duy trì sự phát triển ổn định (bền vững, an toàn) và hiệu quả chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế, đặc biệt là chức năng thanh toán và trung gian tín dụng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng ngân hàng. Điển hình chứng tỏ vai trò này của BHTG là hiệu quả hoạt động BHTG ở Hoa Kỳ trong giai đoạn khủng hoảng tín dụng. Vào thời điểm tháng 9 năm 2008, có 12 ngân hàng ở Hoa Kỳ bị tuyên bố chấm dứt hoạt động, chỉ vài ngày sau đó, toàn bộ tài khoản tiền gửi của khách hàng được tiếp nhận bởi các ngân hàng khác: Ngân hàng bắc cầu do Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) thành lập hoặc ngân hàng khác được Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ (FDIC) thỏa thuận trước đó. Vì vậy, khách hàng tiến hành các giao dịch bình thường, kể cả các khoản nợ của các khách hàng vẫn được thành toán như thường lệ. Thực tế có thể thấy rằng, Luật Bảo hiểm tiền gửi của Hoa Kỳ đã tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan này phản ứng nhanh chóng trước mỗi đổ vỡ của các ngân hàng. Từ đó, tránh được tâm lý hoang mang của người gửi tiền tại các ngân hàng gặp phải vấn đề này. Mọi hoạt động ngân hàng vẫn được diễn ra bình thường trong một thời gian nhất định cho đến khi một giải pháp thích hợp được áp dụng.
Để xây dựng và triển khai các hoạt động BHTG trong thực tiễn, các quốc gia luôn phải xác định cụ thể vai trò, mục tiêu hoạt động của cơ quan BHTG. Về cơ bản, vai trò của BHTG ở các quốc gia đã và đang triển khai là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền; củng cố và nâng cao niềm tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng quốc gia; giảm thiểu rủi ro trong hoạt động ngân hàng; tái cấu trúc hoạt động ngân hàng; góp phần duy trì sự an toàn, lành mạnh của hệ thống tài chính quốc gia.
Để lại một bình luận